Tiểu sử
Thanh Tâm Tuyền sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh, tên thật là Dư Văn Tâm.
Năm 1952 (16 tuổi), ông dạy học tại trường Minh Tân (Hà Đông) và đăng những truyện ngắn đầu tiên trên tuần báo Thanh Niên (Hà Nội).
Năm 1954, ông hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
Năm 1955, ông vào Sài Gòn, cùng các bạn làm làm tờ Dân Chủ mà Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp phụ trách phần văn nghệ. Mai Thảo gửi đến đoản văn "Đêm giã từ Hà Nội". Thanh Tâm Tuyền "kinh ngạc", mời tác giả đến toà soạn. Từ đó, "nhóm"' có thêm Mai Thảo, chủ trương tuần báo Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo), với sự cộng tác của Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
Tháng 10 năm 1956, Sáng Tạo ra đời. Từ 1956 đến 1960, Mai Thảo làm chủ bút. Năm 1956, hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền cho in cuốn sách đầu tay Tôi không còn cô độc (thơ), và năm sau Bếp lửa (văn, 1957), hai tác phẩm đánh dấu sự thay đổi diên mạo văn học miền Nam, đến thời đó vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lãng mạn tiền chiến.
Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, 1966, giải ngũ, 1969, tái ngũ, ở trong quân đội đến 1975; cấp bực cuối cùng là đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau 1975, bị đi tù cải tạo 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc. Thanh Tâm Tuyền ra tù 1982. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1990 theo diện HO, sống ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ, giữ thái độ gần như ẩn dật.
Thanh Tâm Tuyền mất hồi 11 giờ 30 ngày 22 tháng 03 năm 2006, khi mới bước vào tuổi 70.
Một số thơ của ông đã được Phạm Đình Chương và Cung Tiến phổ thành những nhạc phẩm rất nổi tiếng như: Bài ngợi ca tình yêu, Dạ tâm khúc, Đêm màu hồng, Lệ đá xanh, Nửa hồn thương đau.
Tác phẩm
Thơ
Tôi không còn cô độc (Người Việt, Sài Gòn, 1956), 30 bài thơ
Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy (Sáng Tạo, 1964), 25 bài thơ
Thơ ở đâu xa (Trầm Khắc Phục xuất bản, California, 1990)
Tiểu thuyết
Bếp lửa (Nhà xuất bản. Nguyễn Đình Vượng, 1957)
Cát lầy (Giao Điểm, 1967)
Mù khơi (1970)
Tiếng động (1970)
Một chủ nhật khác (Văn, 1975)
Ung thư (đăng nhiêu kỳ trên báo Văn, chưa xuất bản)
Truyện ngắn
Khuôn mặt (Sáng Tạo, 1964)
Dọc đường (Tân Văn, 1966)
Kịch
Ba chị em (1967)
Phiếm luận
Tạp ghi (1970)
Nhà thơ tương phản
Thanh Tâm Tuyền lý giải hành trình thơ tự do của mình trong bài tiểu luận Nỗi buồn trong thơ hôm nay: Tại sao phải đổi mới? - Bởi, theo ông thơ Luật gò bó nhịp điệu trong tám câu. Thơ mới biến hóa hơn, nhưng rút gọn phạm vi trong bốn câu. Thơ phá thể là thơ mới trong ngõ cụt: Các câu dài ngắn khác nhau nhưng đầy vần điệu giả tạo, vì thế phải có thơ tự do. Nhịp điệu trong thơ tự do không gieo lối đồng âm, đồng thanh, mà là nhịp điệu của hình ảnh, nhịp điệu của ý thức.
Dựa vào sự phân biệt của Nietzsche (trong Nguồn gốc bi tráng kịch) giữa hai quan niệm nghệ thuật: Nghệ thuật Apollon hay nghệ thuật tạo hình, với cái đẹp toàn bộ, hoàn chỉnh và nghệ thuật Dyonysos hay nghệ thuật phi hình, phá vỡ những hình thức sẵn có, Thanh Tâm Tuyền chọn con đường thứ nhì:
"(Người làm thơ hôm nay) không mơ mộng, nghĩa là không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn đã là một hình dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn không che đậy."
(Nỗi buồn trong thơ hôm nay, 1956, in lại trên Văn số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 10/1972)
Với thơ, Thanh Tâm Tuyền chọn sự phá thể của Dionysos, nhưng ông từ chối hội hoạ trừu tượng: "Nghệ thuật là cách xây dựng cụ thể của đời sống. Do đó trong danh từ nghệ thuật tự nó đã loại trừ danh từ trừu tượng [...]. Hội họa trừu tượng là một hủy thể thuần túy. Người xem không tìm thấy ý nghĩa nào ngoài sự đổ vỡ hoàn toàn của mọi hình thể, sự rối loạn vô định của đường nét." (Thanh Tâm Tuyền, Nhân nghĩ về hội họa, in lại trong Văn số tháng 10/1972). Bài này, viết năm 1956, ở tuổi hai mươi, có thể nhà thơ trẻ chưa nhận ra giá trị của hội họa trừu tượng nên đã vội quá lời chăng? Bởi nếu hỏi lại: Tại sao nhà thơ có quyền phá vỡ mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn của nó, mà hoạ sĩ lại không được quyền làm thế? Tại sao lại quyết đoán rằng: hội họa trừu tượng là hủy thể thuần túy? Cho rằng Thanh Tâm Tuyền nhìn thấy trong hội họa trừu tượng một sự hủy thể thuần túy đi, nhưng nếu đã quan niệm tự do tuyệt đối trong sáng tác, tại sao không chấp nhận hủy thể thuần túy?
Xuất hiện tháng 10/1956 cùng với tạp chí Sáng Tạo, Tôi không còn cô độc gây những phản ứng cực kỳ tương phản và nhiều năm sau, lời yêu, tiếng ghét vẫn chưa nguôi cường độ và nồng độ ban đầu.
Điểm tương phản thứ nhất: Thanh Tâm Tuyền sống một lúc hai thực tại: Thực tại hiện sinh trong nghĩa đi đến tận cùng của nhận thức (perception): lý trí chủ động biện chứng. Và thực tại siêu thực, phủ nhận vai trò của lý trí, tìm đến phần vô thức trong sáng tạo. Hiện sinh và siêu thực là hai khái niệm tương phản, Sartre luôn luôn từ chối vô thức, ông cho rằng không có ý thức thì làm sao biết được trong vô thức của mình chứa chấp những gì.
Điểm tương phản thứ nhì: tư tưởng hoài nghi xuất hiện cùng với "sứ mệnh" anh hùng (Malraux, Eluard) tranh đấu cho tự do dân chủ, gây nghịch lý, có thể dẫn đến hiểu lầm: Trả lời câu hỏi: Có thể có tự do? Tiểu thuyết Bếp lửa (1957) dường như muốn nói: con người không có tự do lựa chọn, anh ở trong một tình thế, và anh phải xoay xở với tình thế đó. Nhưng để mở đầu tập thơ Tôi không còn cô độc, nhà thơ mời người đọc "tự do" bước vào tác phẩm của mình, trong một tình thế rất tương phản: anh phải thần phục nếu anh bước vào lãnh thổ của tôi, nếu không, anh ném cuốn sách của tôi qua cửa sổ:
Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ
quyền uy. Bởi vì người vào
trong đất đai của tôi
người hoàn toàn tự do.
để cai trị tôi có những luật lệ
tinh thần mà người phải thần
phục nếu người muốn nhập
lãnh thổ.
người hoàn toàn tự do
và có thể ném cuốn sách qua cửa sổ.
(Tôi không còn cô độc, lời mở đầu)
Đọc thơ ông, sẽ thấy những cái tôi "vẽ chữ Tự Do mọi người cười ào ạt" (trang 62) đi cùng với những cái tôi "khắc Tự Do vào mỗi tâm hồn" (trang 63). Bởi Tự do, trong thời điểm ấy, vừa là thí điểm trào lộng, vừa là cái cớ để đàn áp tự do: Người Việt pha trộn hai thái cực ấy. Nếu loại trừ những cái tôi "khắc Tự Do vào mỗi tâm hồn" đi, thì ngọn lửa đấu tranh tiêu tán và tác phẩm (biểu hiệu sự tranh đấu cho tự do ở miền Nam) không có lý do tồn tại. Đó là mâu thuẫn sâu xa giữa tác phẩm và biểu tượng, giữa đấu tranh và lý tưởng tranh đấu, giữa hai cực và con người (không thể lựa chọn, không biết lựa chọn). Con người ở vị trí trung gian, không đen, không trắng. Con người chịu đựng và bắc cầu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét