Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (Chữ Hán: 武黃遧; 14/05/1915 – 06/09/1976) sinh ra tại Nam Định, quê gốc ở làng Phù Ủng, thuộc huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, hiện nay thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Phong cách viết của ông được đánh giá là thanh lịch, mang hơi thở của thời đại xưa, với sự pha trộn của âm nhạc và mang đậm nét văn hoa Đông phương.
Tiểu sử
Trong thời thơ ấu, Vũ Hoàng Chương được học chữ Hán tại nhà, sau đó học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931, ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội và đỗ Tú tài vào năm 1937.
Sau đó, ông vào Trường Luật vào năm 1938, nhưng chỉ học được một năm thì bỏ để làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm.
Năm 1941, ông từ bỏ công việc để đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, sau đó lại bỏ học để dạy ở Hải Phòng. Trong thời gian này, ông liên tục sáng tác thơ và kịch. Sau khi trở về Hà Nội, ông thành lập "Ban kịch Hà Nội" cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942, đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cùng năm đó, ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột của nhà thơ Đinh Hùng, và hai người kết hôn vào năm 1944.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông trở về Nam Định và công diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Vũ Hoàng Chương cùng gia đình tản cư về Thái Bình và bắt đầu làm nghề dạy học. Đến năm 1950, khi quân Pháp tấn công, ông rời quê hương và trở về Hà Nội, nơi ông tiếp tục làm giáo viên và viết văn cho đến năm 1975.
Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam và định cư tại Sài Gòn, nơi ông tiếp tục sáng tác văn học và giảng dạy tại các trường trung học và Văn khoa Đại học Tổng hợp Sài Gòn.
Năm 1959, ông đoạt “Giải Thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc” của Việt Nam Cộng Hòa cho tập thơ Hoa đăng. Cuối năm đó, anh sang châu Âu dự Hội nghị thơ quốc tế ở Bỉ.
Năm 1964, ông tham gia Hội nghị các nhà văn châu Á tại Bangkok, và năm sau, 1965, ông tham dự Hội nghị các nhà văn quốc tế tại Bled, Nam Tư. Năm 1967, ông tham dự Hội nghị Nhà văn Quốc tế tại Abidjan, thủ đô Côte d'Ivoire.
Từ năm 1969 đến năm 1973, Vũ Hoàng Chương là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1972, ông đoạt giải nhì văn học toàn quốc và được vinh danh là “Thi nhân” của Việt Nam.
Năm 1972, lần đầu tiên Vũ Hoàng Chương được đề cử giải Nobel Văn học. Tuy nhiên, giải thưởng đã được trao cho nhà thơ Đức Heinrich Böll, người đã liên tục được đề cử từ năm 1960 và cuối cùng giành chiến thắng vào năm 1972. Viện Hàn lâm Thụy Điển chỉ công bố sự kiện này vào năm 2023 vì chính sách của họ là giữ bí mật danh sách những người được đề cử trong 50 năm sau đó. giải thưởng được trao.
Ngày 13 tháng 4 năm 1976, ông bị Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt và giam tại nhà thương Chí Hòa. Ông được phép trở về nhà vì sức khỏe yếu nhưng đã qua đời vào ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn chỉ sau năm ngày. Mười năm sau, năm 1986, mộ Vũ Hoàng Chương được dời về Nghĩa trang chùa Giác Minh, Gò Vấp.
Sự nghiệp
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, được biết đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng và đóng góp lớn cho văn học nước nhà. Ông bắt đầu sự nghiệp văn chương với tập thơ đầu tiên mang tên "Thơ Say" được xuất bản vào năm 1940. Tuy nhiên, tác phẩm đầu tay của ông không được đánh giá cao lắm và ông còn phải trải qua một thời gian dài để hoàn thiện phong cách và nội dung của mình.
Sau đó, Vũ Hoàng Chương liên tục cho ra đời các tác phẩm văn học đa dạng, bao gồm thơ, kịch và tiểu luận. Tác phẩm của ông thường tập trung vào chủ đề tình yêu, cuộc sống và nhân văn, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước đang chịu những biến động lớn.
Với phong cách viết thơ khác biệt, Vũ Hoàng Chương đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Ông sử dụng các từ ngữ tươi mới, cú pháp đa dạng, tạo nên những hình ảnh độc đáo và sâu sắc. Ngoài ra, ông còn là một giáo sư đại học và một nhà bình luận văn học nổi tiếng, đã giúp đỡ và ảnh hưởng đến nhiều tác giả trẻ.
Trong suốt sự nghiệp của mình, Vũ Hoàng Chương đã nhận được nhiều giải thưởng và vinh dự, bao gồm Giải văn học nghệ thuật Toàn quốc, Giải thưởng văn chương toàn quốc, và danh hiệu "Thi bá" Việt Nam. Năm 1972, ông còn được đề cử giải Nobel văn học. Tuy nhiên, ông đã qua đời vào năm 1976, để lại một di sản văn học vô giá cho đất nước.
Phong cách của Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương có phong cách sáng tạo độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ và cảm xúc. Ông sử dụng những hình ảnh đầy tượng trưng và biểu cảm để truyền tải sâu sắc những ý tưởng và suy nghĩ của mình đến người đọc. Bản thân ông cũng là một người rất sáng tạo và có cá tính, điều này được thể hiện rõ qua các tác phẩm của ông.
Ngoài ra, phong cách của Vũ Hoàng Chương còn có sự đa dạng và linh hoạt, từ những bài thơ về tình yêu, tình bạn đến những bài thơ về chính trị, xã hội và đời sống. Ông cũng sử dụng nhiều kỹ thuật thơ và khéo léo trong việc chọn từ và câu, đồng thời sử dụng những hình ảnh đẹp và tươi sáng để tạo nên những bức tranh thơ lãng mạn và sâu sắc.
Tác phẩm
Dưới đây là danh sách các tác phẩm tiêu biểu của Vũ Hoàng Chương:
Thơ say (1940), bao gồm 32 bài thơ.
Mây (1943), bao gồm 25 bài thơ.
Thơ lửa (cộng tác với Đoàn Văn Cừ, 1948).
Rừng phong (1954), bao gồm 39 bài thơ.
Hoa đăng (1959), bao gồm 50 bài thơ.
Tâm sự kẻ sang Tần (1961).
Trời một phương (1961), bao gồm 26 bài thơ.
Lửa từ bi (1963), bao gồm 15 bài thơ.
Ánh trăng đạo lí (1966), bao gồm 30 bài thơ.
Bút nở hoa đàm (1967), bao gồm 51 bài thơ.
Cành mai trắng mỏng (1968), bao gồm 62 bài thơ.
Ta đợi em từ 30 năm (1970).
Đời vắng em rồi say với ai (1971), bao gồm 36 bài thơ.
Ngồi quán (1971), bao gồm 69 bài thơ.
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973), bao gồm 12 bài thơ.
Ngoài ra, Vũ Hoàng Chương cũng sáng tác một số kịch thơ, trong đó có Trương Chi (1944), Vân muội (1944) và Hồng diệp (1944).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét