Tiểu sử nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn
Bùi Hạnh Cẩn (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1947 - mất ngày 22 tháng 5 năm 2010) là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo và nhà giáo Việt Nam. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của thế hệ thơ 1960, với các tác phẩm nổi tiếng như "Chỉ còn đôi bàn tay" và "Nguyệt".
Ông sinh ra và lớn lên tại Hà Nội và bắt đầu viết thơ từ năm 15 tuổi. Ông tốt nghiệp đại học Ngôn ngữ và Văn học Hà Nội vào năm 1970 và sau đó làm việc tại Báo Hà Nội mới và Tạp chí Văn học. Ông cũng là giảng viên tại các trường Đại học và Học viện Văn học.
Ngoài thơ, ông còn sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn và bài viết báo chí. Tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm tiểu thuyết "Nguyệt" (1984), tập truyện "Vết thù" (1987), "Trong thế giới phù hoa" (1991) và "Chợ đời" (1995).
Ông cũng được biết đến là một trong những nhà báo và nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam trong những năm 1970 và 1980, và là một trong những người sáng lập Tạp chí Văn học. Ông từng giữ chức vụ phóng viên và biên tập viên cho nhiều tờ báo và tạp chí, bao gồm Báo Nhân dân, Báo Tuổi trẻ, Tạp chí Học sinh và Sinh viên, và Tạp chí Văn nghệ.
Bùi Hạnh Cẩn mất vào ngày 22 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội vì bệnh ung thư gan. Ông được tưởng niệm và kính trọng bởi những đóng góp của mình cho văn học Việt Nam và là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của thế hệ mình.
Con đường sự nghiệp
Bùi Hạnh Cẩn bắt đầu viết thơ từ nhỏ và được coi là một trong những tài năng triển vọng của văn học Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông nhập học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội và tốt nghiệp khoa Ngữ văn. Sau đó, ông trở thành một giáo viên và giảng dạy tại nhiều trường phổ thông và trường đại học ở Hà Nội.
Năm 1975, sau khi miền Nam Việt Nam thống nhất, ông được mời làm giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam. Năm 1976, ông trở thành Phó Tổng giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam và sau đó làm Tổng giám đốc từ năm 1983 đến năm 1991.
Ngoài ra, ông còn là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1992 đến năm 1997 và làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2002.
Ông cũng là một nhà báo và đã giữ vị trí phóng viên và biên tập viên cho nhiều tờ báo và tạp chí, bao gồm Tạp chí Văn học, Báo Công an nhân dân, Báo Thanh niên và Báo Hà Nội mới.
Ngoài ra, ông còn là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm đã được xuất bản và giành nhiều giải thưởng văn học quan trọng, bao gồm Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1988 và năm 1997), Giải thưởng Hoàng Anh (năm 1993) và Giải thưởng Văn học ASEAN (năm 1996).
Gia đình
Về gia đình, Bùi Hạnh Cẩn đã kết hôn với bà Lê Thị Đại và có một con trai. Bà Lê Thị Đại cũng là một nhà văn và là giám đốc Trung tâm Văn hóa Khoa học Việt Nam tại Hàn Quốc. Trước khi kết hôn, Bùi Hạnh Cẩn đã từng có một mối tình đẹp với một người con gái xứ Huế, đó cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông. Tuy nhiên, sau này ông đã quyết định gả cho bà Lê Thị Đại và hạnh phúc cùng nhau trong suốt cuộc đời.
Các tác phẩm
Bùi Hạnh Cẩn có khoảng hơn 100 đầu sách (thơ, văn, dịch thuât) được lưu tại thư viện Quốc gia.
Hẹn
Hồ Xuân Hương, thơ chữ Hán, chữ Nôm & giai thoại (1999)
Ngõ ba nhà (tiểu thuyết, dịch)
Hai mươi nữ nhân Trung Quốc (2005)
Trí tuệ Kinh điển Trung Hoa (dịch, 2004)
Kẻ Dộc Đông Ngàn Hà Nội
Tự điển Kinh dịch phổ thông
Sử ký Tư Mã Thiên - Những điều chưa biết (dịch, 2007)
Từ vựng chữ số và số lượng (1994)
192 Bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1994)
Thành ngữ, Tục ngữ Việt Nam (2004)
Tinh hoa văn hoá dưỡng sinh (1991)
Thăng Long Thi Văn tuyển (dịch, 2006)
Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương Cống Việt Nam (2002)
Năm đời Tổng Mỹ (truyện,1973)
Ký sự lên Kinh (sưu tầm, dịch thơ văn Hải Thượng Lãn Ông, 1973)
Lê Quý Đôn (truyện ký, 1984)
Bà Điểm họ Đoàn (nghiên cứu, 1987)
Chinh phu ngâm của Hông Liệt Bá (dịch)
Tục ngữ cách ngôn thế giới (1987)
Chợ Viềng Hội Phủ (sưu tầm khảo cứu, 1983)
Nguyễn Bính và tôi (hồi ký, 1994)
Tổng tập thơ chữ Hán Nguyễn Du (dịch, 1996)
Tổng tập thơ phú Nôm của Nguyễn huy Lượng (dịch, 1996)
Tranh chữ (2010)
Bùi Hạnh Cẩn là một tác giả được đánh giá cao về nghệ thuật và nhận được nhiều giải thưởng văn học quan trọng, trong đó có:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học năm 2006
Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2009
Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật (2004, 2009)
Giải thưởng Văn học Cánh Diều (1995, 1999)
Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1997, 2003)
Giải thưởng Thơ Việt Nam (1986)
Bên cạnh đó, ông còn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ và văn học hiện đại. Các tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và được đón nhận rộng rãi trong cộng đồng văn học quốc tế
0 nhận xét:
Đăng nhận xét