Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

HOÀNG TRẦN CƯƠNG


Tiểu sử

· Nhà thơ Hoàng Trần Cương sinh năm 1948 ở Nghệ An, thuộc dòng dõi họ Mạc, hậu duệ đời thứ 29 của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, nhưng sinh sống tại Hà Nội từ nhỏ.

· Ông được giải A về văn xuôi đề tài lực lượng vũ trang (1970-1972) của Tạp chí Văn nghệ quân đội với ký sự Hạnh phúc hôm nay; Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (1989-1990) và giải thưởng Văn học nghệ thuật Bộ Quốc phòng (1994-1999), giải thưởng Hồ Xuân Hương (5 năm một lần) của Hội Văn học nghệ thuật Nghệ Tĩnh cho trường ca Trầm tích.

· Về bài thơ Miền Trung, nhiều bạn đọc sau này chỉ biết nó là chương cuối cùng, chương số 19 - Miền Trung trong trường ca Trầm tích được trao nhiều giải thưởng văn chương, nhưng thực chất đây là một bài thơ độc lập, đã được tác giả sáng tác trước đó.

· Nhà thơ Trần Đăng Khoa cho biết, bài thơ Miền Trung đã được tác giả Hoàng Trần Cương sán tác năm 1990.

· Đến năm 1996, khi sáng tác trường ca Trầm tích, tác giả mới “bê” bài thơ đã nổi tiếng này vào chương cuối cùng của trường ca Trầm tích. Ông Hoàng Trần Đồng - em trai của nhà thơ Hoàng Trần Cương, cũng xác nhận thông tin này với Tuổi Trẻ Online.

· Đối với người yêu văn chương ở Việt Nam, nhà thơ Hoàng Trần Cương được biết đến hơn cả ở thể loại trường ca, đặc biệt là trường ca Trầm tích đã mang lại cho ông các giải thưởng danh giá: Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (1989-1990), Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng (1994-1999), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (2000)... Là người con xứ Nghệ, Hoàng Trần Cương đã đưa phương ngữ vào thơ một cách tài tình, tạo nên những thi ảnh độc đáo rất miền trung: uy nghiêm, khắc nghiệt nhưng sắt son, nghĩa tình. Là một người lính và một thương binh đã tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, chất lính trong ngôn ngữ và nhạc tính trong thơ của ông vừa xù xì, dữ dội vừa mềm mại, nhân văn. Cả bài thơ của ông bao quát chủ đề tư tưởng là lòng yêu nước, yêu quê hương, dân tộc, đồng đội..., nhưng từng câu thơ riêng lẻ vẫn tìm ra lối đi trữ tình để găm vào trí nhớ người đọc.

· Lại nói về Trầm tích của Hoàng Trần Cương, tác phẩm được ông khởi thảo năm 1986, công bố năm 1999. Tác phẩm gồm 19 chương; mỗi chương có thể đứng riêng rẽ, độc lập như một bài thơ; thậm chí “ngắt ra” từ mỗi chương ấy những đoạn thơ với dung lượng ngắn hơn, chúng vẫn cũng có thể tồn tại như những bài thơ trữ tình đặc sắc. 19 chương của Trầm tích cùng chụm vào một mục đích: bằng con mắt thơ, bóc tách những lớp, những tầng, những vỉa của khối trầm tích địa - văn hóa có tên là “xứ Nghệ”.

· Đọc Trầm tích, qua cái nhìn nghệ thuật “riết róng và sắc lẻm” về miền Trung của Hoàng Trần Cương – chữ của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết “Khúc biến tấu của tình yêu”– ta thấy hiện lên đậm nét, những nét riêng có, mảnh đất và con người xứ Nghệ, tâm hồn Nghệ, “chất” Nghệ. Nhà thơ Hoàng Cầm đã từng khẳng định trong hội thảo về tập thơ Trầm tích : “Lâu lắm tôi mới được đọc một tập sách dày dặn, chứa đựng sự thực lớn như thế này. Tác giả Trầm tích là một thi sĩ đích thực. Phải yêu quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương đến mức nào thì mới viết được đến thế. Đọc ứa nước mắt. Đây thực phải là con người miền Trung”. Sau Trầm tích, Hoàng Trần Cương còn tiếp tục viết và công bố nhiều trường ca khác : U Minh, Đỉnh Vua, Long mạch… thế nhưng, Trầm tích vẫn là sự “trầm tích” dồi dào nhất cho năng lượng trường ca của Hoàng Trần Cương

Chương Miền Trung trong trường ca Trầm tích của tác giả Hoàng Trần Cương



Bao giờ em về thăm

Mảnh đất quê anh một thời ngún lửa

Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa

Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam



Miền Trung

Tấm lưng trần đen sạm

Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm dăng màn

Thoáng bóng giặc núi bửa thành máng súng

Những đứa con văng như mảnh đạn

Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi



Miền Trung

Đã bao đời núi với bể kề đôi

Ôi! Biển Đông - giọt nước mắt của muôn ngàn thế hệ

Nóng hổi như vừa lăn xuống

Theo những tảng đá cụt đầu của Trường Sơn uy nghiêm



Miền Trung

Câu ví dặm nằm nghiêng

Trên nắng và dưới cát

Đến câu hát cũng hai lần sàng lại

Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm



Miền Trung

Bao giờ em về thăm

Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt

Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ

Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ

Không ai gieo mọc trắng mặt người



Miền Trung

Eo đất này thắt đáy lưng ong

Cho tình người đọng mật

Em gắng về

Đừng để mẹ già mong.



Mẹ

Đọc lại tập thơ nổi tiếng nhất của ông, tập "Trầm tích" (1996), tôi bị ám ảnh nhiều nhất bởi những câu thơ về mẹ và quê hương. Đây có lẽ cũng là một trong những cảm hứng lớn nhất trong thơ Hoàng Trần Cương, mang lại cho ông những thi phẩm xuất sắc và cũng khiến ông trăn trở suốt một đời văn.

Người mẹ trong thơ Hoàng Trần Cương hiện lên trước tiên với nỗi vất vả nhọc nhằn ở một vùng quê lam lũ. Cái vất vả ấy kéo dài suốt tháng quanh năm, nó thấm vào đứa trẻ từ khi mới lọt lòng: "Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo/ Tôi lấm láp đáp mình vào đất" (Nguồn cội).

Trong mỗi cuộc mưu sinh hằng ngày, trong những khi phải chống đỡ với thiên tai, có những câu thơ dễ khiến chúng ta ứa nước mắt vì cảm động, vì xót xa: "Bữa tôi chào đời trời rạch chớp xanh/ Nước sông Lam đã trèo vào cổng/ Treo vội con lên chạn/ Mẹ xắn quần đi giằng lại cái sanh đồng sứt quai (Cật tre)/ Mẹ lật đật trèo lên đò ngang/ Quẩy theo con vào chợ/ Gò lưng giữ cho cân đòn gánh/ Chỉ sợ con lật người là đổ mất ngày mai… Sớm mai sụp nón/ Sấp mặt ngồi cuối chợ/ Nhặt về những đồng xu bạc phếch đất bùn" (Thóc giống).

Mẹ giống như nhân vật nữ mang tính điển hình cao nhất, đại diện cho quê hương. Bên cạnh mẹ còn thấp thoáng bóng dáng người bà, cũng vất vả lầm lũi suốt một đời, lúc nào cũng dõi theo và yêu thương cháu: "Chiều chiều mẹ ra sông mót cá/ Tôi tha thẩn khắp vườn bòn mấy quả mận xanh… Đâu biết có bà vẫn lần theo canh chừng gai góc/ Lụi hụi dáng lưng còng lóng ngóng vịn cơn mưa" (Đất mật).

"Lụi hụi dáng lưng còng lóng ngóng vịn cơn mưa", theo tôi là một trong những câu thơ hay nhất viết về hình ảnh người bà trong thơ Việt Nam hiện đại. Câu thơ đầy ám ảnh bởi tính tượng hình qua việc điệp lại 5 lần phụ âm cuối "ng" qua các từ: "dáng", "lưng", "còng", "long", "ngóng". Ba chữ "vịn cơn mưa" ở cuối câu thơ lại mang vẻ đẹp kì ảo.

Người bà như bước từ quá khứ, từ những hồi ức kỷ niệm trở về hiện tại với tác giả, vừa gần gụi mà vừa xa mờ. Hai chữ "lụi hụi" mang thanh nặng khiến âm điệu câu thơ lúc đầu chìm xuống, nhưng hai chữ "cơn mưa" mang thanh không lại khiến câu thơ bay lên khi kết thúc, làm lòng người mãi rưng rưng…

Người mẹ trong bao kham khổ, vất vả vẫn tần tảo chắt chiu chăm lo cho đàn con mỗi ngày. Người mẹ nào mà chẳng quan tâm lo lắng yêu thương các con, nhưng người mẹ chăm lo cho đàn con trong cảnh nghèo mà Hoàng Trần Cương tạc lại trong thơ có những chi tiết vô cùng ám ảnh: "Mong bắt được vài con cá chầy/ Để buổi chợ sớm mai mẹ không ngồi đỏ mắt/ Để bữa cơm chiều hôm không vàng khè màu ngô dặt/ Với đĩa rau lang cao như tầng núi xám/ Che mặt các em con phía bên kia mâm/ Nước mắt mẹ rơi thầm/ Những giọt nước mắt mẹ cố che để con không nhìn thấy" (Thóc giống).

Không chỉ những chi tiết mà còn là cả những câu chuyện cứ lần lượt hiện về từ trong ký ức, những câu chuyện rất thực rất đời từ một vùng quê nghèo, không cần tô vẽ, nhà thơ chỉ kể lại đúng như nó diễn ra để rồi những câu chữ chạm vào tim người đọc: "Tôi nhảy nhót/ Va vào vại nhút/ Vại nhút va vào gốc cau và vỡ tan tành/ Vỡ tan tành thức ăn cất trữ của cả nhà trong mùa lụt/ Mẹ không mắng/ Mà khom lưng nhặt nhạnh/ Những mảnh sành kết muối trắng tinh/ Vại nhút vỡ mất rồi/ Biết lấy gì đắp lên bát cơm gạo lứt/ Mẹ chan tiếng cười chạy vòng quanh mâm/ Nhìn những mảnh sành vương vãi khắp sân/ Tôi chợt hiểu/ Vì sao tóc bà rồi tóc mẹ/ Cứ trắng như phía trong của lớp mảnh sành nằm đáy vại/ Khi tan cả hình hài/ Ta mới kịp nhận ra…" (Cật tre).

Người mẹ không chỉ nuôi con khôn lớn mà còn trao cho con một sức mạnh tinh thần, cho con mình một trái tim vừa biết mạnh mẽ vừa biết yêu thương: "Mẹ ơi/ Mẹ đã cho con trái tim mang hình chóp núi/ Chống nắng chọi mưa/ Trần trụi dưới trời/ Cái chóp núi vừa ngoi lên đã chui qua cát bụi" (Địa linh).



0 nhận xét:

Đăng nhận xét