Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2023
Home »
1924
,
Kháng Chiến Chống Pháp Và Chống Mỹ
,
Phạm Võ
,
Thế Kỷ 20.
,
Văn Phụng Mỹ
,
Võ Trọng Cảnh
» TRANG THẾ HY
TRANG THẾ HY
Tiểu sử
Trang Hy tên thật là Võ Trọng Cảnh, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1924 tại Châu Thành, Bến Tre. Ngoài bút danh Trang Thế Hy, ông còn có các bút hiệu khác như Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triệu Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phạm. .. Ông đã tham gia giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Bến Tre, hoạt động cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau năm 1975, ông hoạt động văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh và năm 1, ông làm biên tập viên Văn nghệ tại báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được coi là một trong những gương mặt mới tiêu biểu của văn học miền Nam nửa cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21.
· Ông qua đời lúc 0g50 ngày 8.12.2015 tại nhà riêng (Khu phố 1, phường Phú Tân, thành phố Bến Tre) sau một thời gian kiệt sức do tuổi già.
Giải thưởng
· Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu (1960 - 1965) cho truyện ngắn Anh Thơm râu rồng
· Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng khóc và tiếng hát
· Tặng thưởng loại A của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật VN năm 2001 cho tập truyện Nợ nước mắt
Tác phẩm
· Theo thống kê chưa đầy đủ của gia đình thì ông có khoảng 65 truyện ngắn, khoảng 20 bài thơ và 2 tiểu thuyết. Các tác phẩm được nhiều độc giả yêu thích như:
· Nắng đẹp miền quê ngoại (1964)
· Mưa ấm (1981)
· Người yêu và mùa thu (1981)
· Vết thương thứ 13 (1989)
· Tiếng khóc và tiếng hát (1993)
Nhà văn biết cách im lặng
Những lần gặp ông trong đám giỗ nhà văn Sơn Nam, tôi thường thấy chú Tư Sâm (tức nhà văn Trang Thế Hy) ngồi cùng bàn với nhà thơ Kiên Giang và “anh Năm” Nguyễn Quang Sáng. Anh Năm thua chú Tư Sâm gần 10 tuổi cộng với ngoại hình thấp đậm, da dẻ hồng hào nên trông có vẻ tráng kiện hơn. Chú Tư thân hình gầy đét, đi đứng phải có người dìu… Vậy mà, anh Năm “đi” trước…
Sau nhiều ngày tháng chuẩn bị, NXB Trẻ tình cờ chọn ngày 20.7.2014 để làm lễ “ký kết tác quyền trọn đời” với nhà văn Trang Thế Hy (90 tuổi). Khi chúng tôi cùng đoàn của NXB Trẻ đến tư gia của ông (khu phố 1, P.Phú Tân, TP.Bến Tre) thì đã thấy họa sĩ Lê Triều Điển và vợ ông (nhà thơ - họa sĩ Phạm Thị Quý), các nhà thơ: Ý Nhi, Trần Hữu Dũng, Lynh Bacardi, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Tiến Văn, nhà văn Ngô Thị Kim Cúc, họa sĩ Vũ Hà Nam… đang quây quần ở đó. Lại nghe nhà văn Cao Xuân Sơn đang cùng đoàn NXB Kim Đồng trên đường xuống đây. Sao cụ già 90 tuổi này có sức hấp dẫn đến vậy?
Nhớ hôm gặp ông Tư Sâm lần trước, ông ngồi bần thần nhìn ra vuông sân nhỏ, nơi có những con chim sẻ vụt sà xuống, nhảy nhót rồi bay đi. Ông nói: “Nhiều khi mơ ước được như mấy con chim nhỏ bé kia, mà cũng không được…”. Nghe ông nói mà cám cảnh, hiểu được thế nào là giai đoạn “lực bất tòng tâm”. Vậy mà, sáng ngày 20.7 ấy, ông rất vui, chuyện vãn rất sôi nổi, và… đọc thơ tiếng Pháp ro ro. Một đồng nghiệp hỏi (để thử) chú có quan tâm đến những tài năng văn học hiện nay. Ông trầm ngâm giây lát rồi nói: “Gần đây có Nguyễn Ngọc Tư gọi tóc là “những sợi máu khô”, tôi cho đó là tài năng...”. Rồi ông đọc thơ của Bùi Giáng (sợ chúng tôi ghi không kịp, ông đọc chậm và nhắc chừng “xuống hàng”): “Con chim thì ta biết nó bay (xuống hàng). Con cá thì ta biết nó lội (xuống hàng). Thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ (xuống hàng). Còn thơ là gì, ấy là điều ta không biết!”. Ông Tư Sâm còn trích dẫn câu danh ngôn (của một vị thánh Hồi giáo): “Con người chỉ mất hai năm để học nói nhưng phải mất đến hơn sáu mươi năm để học cách im lặng”, và giải thích thêm: “Học cách im lặng không phải là suốt đời im lặng. Học cách im lặng là để biết khi nào không thể im lặng”. Quả là một nhà văn rất kiệm lời của những lần gặp trước tan vèo đâu mất, trước mặt tôi bây giờ là một nhà hiền triết với những trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời.
Từ Đắng và ngọt đến Quán bên đường
Trước năm 1975, chúng tôi thường nghêu ngao một ca khúc phổ từ thơ khá nổi tiếng là bài Quán bên đường của Phạm Duy. Bài hát nhanh chóng phổ biến bởi có những ca từ rất lạ, rất bình dân: “Ngày xưa... ngày xửa... ngày xưa. Chiều mơ chiều nắng đẹp khoe màu tơ. Hai đứa mình còn trẻ thơ. Rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi thẩn thơ... Em cầm một củ khoai, ghé răng cạp vỏ rơi, xong rồi mình chia đôi. Khoai sùng này lượm mót, sao ngọt lại ngọt ghê!... Nhà em phải chăng là đây? Dè đâu chẳng may là quán. Em bẹo hình hài đem bán... Rồi em hỏi anh: làm chi? Cầm bút để viết ngày đêm, viết gì? Đời thối phải nói là thơm. Ngòi bút là chiếc cần câu nồi cơm. Em hỏi nghệ thuật là chi? Là đui, là điếc, là câm mà đi...”.
Phần nhạc thì đã có tác giả rõ ràng nhưng tác giả của phần thơ lại ghi là “khuyết danh”. Sau này, có nhiều người xì xầm rằng tác giả bài thơ là nhà văn Bình Nguyên Lộc, người khác bảo của Minh Phẩm, lại có nhiều ý kiến cho rằng của Trang Thế Hy. Tuy nhiên, sau khi thẩm định lại từ các nguồn tư liệu, giờ đây có thể khẳng định đó là bài thơ Đắng và ngọt của tác giả Minh Phẩm. Trong sự nghiệp 60 năm sáng tác của mình, Trang Thế Hy đã sử dụng gần 10 bút danh, trong đó có những bút danh chỉ dùng một lần, như trường hợp bút danh Song Diệp ở bài thơ Thanh gươm tháng Tám và Minh Phẩm ở bài thơ Đắng và ngọt. Về bài thơ sau, tác giả bộc bạch: “Tháng 9.1959, người chủ biên tuần báo Vui sống (Sài Gòn), nhà văn Bình Nguyên Lộc, khi duyệt bài vở cho tờ báo số 9, đã góp ý với cộng tác viên Minh Phẩm - người nộp bài thơ Đắng và ngọt, rằng cái vị của cuộc đời này nó đa dạng và phức hợp lắm chứ không đơn giản như sự nhu hiền đồng thuận tạo hài hòa hay ngạo mạn đương đầu gây đối nghịch giữa hai cái vị đắng và ngọt”. Vậy rồi, Bình Nguyên Lộc sửa cái tựa từ Đắng và ngọt thành Cuộc đời. Sau đó, Bình Nguyên Lộc lại trao bài thơ cho Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc Quán bên đường. Lúc này Trang Thế Hy (Minh Phẩm) đã vào vùng kháng chiến, Phạm Duy sợ bản nhạc bị kiểm duyệt, không cho phát hành nên để tên tác giả thơ là “khuyết danh”. Tuy nhiên, hiện nay ở một số trang mạng chuyên về ca nhạc, có nơi vẫn để Quán bên đường, nhạc Phạm Duy, thơ Bình Nguyên Lộc…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét