Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023

TRẦN DẠ TỪ


Tiểu sử

Ông Trần Dzạ Từ sinh năm 1940 tại Hải Dương (Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương) với nguyên danh Lê Hạ Vĩnh.

· Năm 1954, ông theo đoàn di cư vào ở hẳn Sài Gòn. Ông sớm nhập Hội Bút Việt, hăng hái viết báo, soạn thơ và có tên tuổi trong làng văn nghệ.

· Năm 1960, ông cộng tác thi sĩ Nguyên Sa lập tờ Gió Mới. Đến năm 1963 thì bị chính quyền Ngô Đình Diệm tống giam vì biểu lộ bất đồng chính kiến trên mặt báo.

· Sau Cách mạng 01 tháng 11, ông kết hôn với một nữ sinh Huế là Trần Thị Thu Vân, cùng tham gia Đài Tiếng nói Tự do ở ban chiêu hồi.

· Ngay khi Việt Nam Cộng hòa cáo chung, chính quyền mới tạm giam Trần Dzạ Từ và Nhã Ca hai năm, liệt vào danh sách Biệt kích văn hóa. Sau đó, Nhã Ca được thả, còn Trần Dzạ Từ tiếp tục ngồi tù 12 năm. Tuy nhiên, vì từng là hội viên Bút Việt nên thuộc phận sự Tổ chức Văn bút Quốc tế, Văn Bút và Ân xá Quốc tế cùng thủ tướng Thụy Điển Ingvar Carlsson đã đến thăm, trao quà và tích cực vận động cho ông bà cùng các con được sang Thụy Điển tị nạn.

· Năm 1992, Trần Dzạ Từ và Nhã Ca lại đưa gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam.

Cuộc đời

Ngày 3 tháng Tư, 1976, khi công an Cộng sản mở chiến dịch hốt gọn văn nghệ sĩ Saigon, tôi đang ở Phan Rang, ngụp đầu trong một cánh đồng mía. Là một anh nhà báo về già, từ nhiều năm trước 1975, sau khi đóng cửa báo Quyết Tiến, sang nhượng nốt cơ sở nhà in ở đường Võ Tánh cho anh Đặng Văn Bé –chủ nhiệm báo Thách Đố, tôi thực sự về vườn, hiểu cả theo nghĩa đen: Ra Phan Rang, tự tay tổ chức trồng dăm ba mẫu mía, vật lộn với mấy lò nấu đường, mỗi tháng chỉ về thăm nhà ở Saigon vài ngày. Khi Cộng sản chiếm Saigon, dù có chung tâm sự với anh em làng văn làng báo cũ, tôi vẫn cười cười, biểu họ: “Moa đâu còn là nhà báo. Moa là nông dân. Lê Nin kêu nông dân là liên minh vững chắc của giai cấp tiên phuông. Mao chủ tịch còn sửa lưng cả Lê Nin, kêu nông dân là thành phần cốt cán. Các toa phởn phơ ở thành phố quen hư thân mất nết, ngán đi kinh tế mới. Moa đã tự giác đi kinh tế mới lao động sản xuất từ khuya rồi. Nông dân trăm phần trăm, còn ngán chó gì nữa.”

Ngày 9 tháng 3, khi tôi xách cái bị lát nông dân từ Phan Rang về Saigon thăm nhà, công an Cộng sản đã rình sẵn từ bao giờ, còng tay cái rụp.Tại sở công an thành phố, trước là trụ sở Nha Cảnh sát đô thành, đường Trần Hưng Đạo, khi cánh cửa sắt nặng nề của phòng giam mở ra, tôi nghe nhiều tiếng cười. Một giọng nói vui vẻ vang lên: “A, Anh Đồng đen đây rồi. Đi đâu giờ này mới chịu mò tới. Nhờ anh tí, bắt anh em chờ mãi.” Vẫn in hệt lối nói quen thuộc trong làng báo miền Nam, thường dành cho anh em tới trễ trong một buổi họp mặt thân mật. Chỉ khác chút xíu: cuộc họp mặt lần này đông đảo chưa từng thấy, mà lại là họp mặt trong nhà tù Cộng sản.Phòng giam vuông vắn mỗi bề khoảng 5 thước, lố nhố năm sáu chục hình người, gần như nêm cứng, chen chân muốn không lọt.

                                    “Lại đây nè, cha nội. Xớ rớ chi vậy.”

Giọng nói quen thuộc lại vang lên. Một anh chàng thấp lùn phe phẩy quạt giấy, mặt mũi vêu vao, đang ngoác miệng ra cười, vẫy vẫy về phía tôi. Tôi nhận ra anh bạn phóng viên Anh Quân. Bên cạnh là anh Doãn Quốc Sỹ, anh Đằng Giao, anh Trần Dạ Từ … Phòng giam nêm chặt kiểu cá mòi đóng hộp, dưới mái tôn nóng điên người, tất cả đều cởi trần, mồ hôi nhễ nhại. Tôi chào tất cả và nói:

                                    “Đông đảo phe ta cả, vui quá há.”
                                      Đáp lời tôi, anh Doãn Quốc Sỹ cười hiền lành:
                                    “Vui thật ông ạ. Còn Khô Vinh đại sư nữa kìa.”

Tôi nhìn theo mắt anh Sỹ hướng về một góc phòng. Trên bệ cao cầu tiêu chung trong góc, tôi nhận ra còn có thêm anh Nguyễn Mạnh Côn. Khô Vinh đại sư là tên một nhân vật tiểu thuyết của Kim Dung. Anh em gán cho anh Côn biệt danh này trúng quá vì anh vốn gầy gò, người nhỏ thó, xương xẩu giống hệt một nhà tu khổ hạnh. Ngồi trần trụi trên cầu tiêu, Khô Vinh đại sư nhìn tôi cười cười, ra dấu chào.

Phòng giam chúng tôi ở, được gọi bằng một tên hoa mỹ là “Tập thể hai.” Tại sở công an, còn có khu A, khu B, tập thể một, phòng giam nữ, và các phòng biệt giam… Thời điểm này, không kể khám Chí Hòa, Đề lao Gia Định, trụ sở các phường quận, nghe nói bin-đinh Đại Lợi và nhiều cao ốc, nhà cửa khác trong thành phố, cũng đều đã biến thành trại giam. Số văn nghệ sĩ bị giam ở nhiều nơi, nhưng đông nhất vẫn là Đề lao Gia Định cũ, (nay được gọi bằng một bí số: T20) và ngay tại Sở công an.Ký giả Nguyễn Tú (Nhật báo Chính Luận), đã bị bắt cùng với văn nghệ sĩ Miền Nam trong chiến dịch tổng truy lùng của chính quyền Cộng sản ngày 3 tháng 4 năm 1976. Ông gây tiếng vang trong làng báo quốc tế qua những bài báo viết về cuộc rút lui của quân đội Miền Nam từ những vùng Cao Nguyên trong những ngày tháng cuối cùng của mùa Xuân 1975. Nguyễn Tú bị giam ở nhiều trại tù lao động trong 13 năm, ông được thả vào năm 1989 và sau đó vượt biên sang Hồng Kông, và được bảo lãnh sang Hoa Kỳ năm 1990.

Khi công an Cộng sản bắt văn nghệ sĩ, nghe kể, họ bắt luôn vợ chồng Đằng Giao – Chu Vị Thủy và cháu nhỏ mới sinh bẩy ngày. Chị Thủy là con gái nhà báo Chu Tử. Có anh em nói, danh sách bắt bớ này phần chính do Vũ Hạnh đề nghị. Vũ Hạnh thời trước, viết phê bình văn nghệ cho báo Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng sản, rồi nằm trong tờ Điện Tín của nhóm Lý Quí Chung, chuyên viết những truyện kháng chiến đường rừng. Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ trích đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng.Khi tôi bị bắt vô sở công an, chị Chu Vị

Thủy đã được cho mang cháu nhỏ về quản thúc tại gia. Trong số văn nghệ sĩ nằm tù Cộng sản, chỉ có chị Nhã Ca là phụ nữ duy nhất. Suốt thời kỳ ở sở công an, chị bị nhốt cát sô. Anh Nguyễn Mạnh Côn cười, bảo tôi: “Con mụ dữ quá.” Tuy cười, anh rất quan tâm việc này.Một bữa, sau buổi “đi làm về”, có nghĩa là bị gọi đi hỏi cung, khi trở về phòng, anh kể với chúng tôi: “Moa bảo họ là bao nhiêu tai to mặt lớn ở miền Nam này, đâu có người nào cách mạng bắt đi tù cả chồng lẫn vợ như trường hợp Trần Dạ Từ và Nhã Ca. Nhốt bà mẹ của 6 đứa con nhỏ, có đứa còn chập chững tập đi, thì vẻ vang gì. Nói thật, bà ta chỉ là một bà viết văn bình thường, chẳng hiểu biết gì về chính trị. Nếu sách bà ta có chống cộng, ấy là do tôi mà có. Thả bà ta về, rồi muốn tôi làm trâu làm chó gì cũng được”.

Tuy Hồ văn Đồng thuật lại rằng “Nhã Ca là phụ nữ duy nhất nằm tù Cộng Sản,” nhà văn Lý Thụy Ý (chủ biên tờ Văn Nghệ Tiền Phong trước 75) cũng bị bắt đi tù lao động ở rừng Bô La 3 năm. Chóe biến bút mực của Lý Thụy Ý thành thập tự trong bức ký họa.

Tác phẩm đã in

· Thuở làm thơ yêu em (Sài Gòn, 1960)

· Tỏ tình trong đêm (Sài Gòn, 1965)

· Nụ cười trăm năm (Quận Cam, chưa phát hành)

· Thơ Trần Dzạ Từ (Quận Cam, 2018)




0 nhận xét:

Đăng nhận xét