Nhà văn Trang Thế Hy tên thật là Võ Trọng Cảnh, ngoài ra còn có các bút danh khác như: Văn Phụng Mỹ, Vũ Ái, Triều Phong, Phạm Võ, Văn Minh Phẩm…Ông sinh ngày 9 tháng 10 năm 1924 tại xã Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Lúc nhỏ, ông học tiểu học ở huyện nhà, sau đó lên học trường Trung học Mỹ Tho. Năm 1940, Võ Trọng Cảnh rời trường lên Sài Gòn kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau: kiểm soát viên cho công ty xe điện, trợ lý kế toán, dạy kèm, làm thủ kho… Thời điểm chín muồi của cách mạng tháng Tám 1945, Võ Trọng Cảnh về lại Bến Tre tham gia cướp chính quyền. Sau đó, anh tích cực tham gia mọi sinh hoạt của tổ chức đoàn thể ở địa phương và bắt đầu công tác tại Ty Thông tin tuyên truyền tỉnh Bến Tre.
Khoảng năm 1951, Võ Trọng Cảnh được chuyển về Sở Thông tin Nam Bộ, rồi Ty Thông tin Cần Thơ và làm ở đó cho đến ngày ký kết hiệp định Giơnevơ. Sau năm 1954, Võ Trọng Cảnh được phân công ở lại miền Nam, sống và hoạt động ở nội thành Sài Gòn trên lĩnh vực văn nghệ. Trong thời gian này, anh cộng tác với các tờ báo Vui Sống, Bách Khoa và là cây viết chủ chốt của Nhân Loại. Trên các tờ báo này, những tác phẩm đầu tay của Võ Trọng Cảnh lần lượt ra đời dưới nhiều bút danh khác nhau. Bút danh Trang Thế Hy được ông chính thức sử dụng trong thời gian này (năm 1959). 7 Năm 1962, do những tác phẩm mang nội dung yêu nước nên Trang Thế Hy bị bắt giam. Một năm sau ông ra tù.
Năm 1964, ông ra vùng giải phóng, làm việc ở Ban Tuyên Huấn đặc khu Sài Gòn – Gia Định khoảng 10 năm, sau đó chuyển sang Tiểu ban Văn nghệ giải phóng cho đến ngày thống nhất đất nước. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trang Thế Hy về sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 15 năm sống ở đây, ông là cán bộ Hội Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là Biên tập viên Văn tại tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1992, với lý do “đi chỗ khác chơi”, Trang Thế Hy rời thành phố Hồ Chí Minh, trở về quê nhà Bến Tre và sống ở đó cho đến nay. Sáng ngày 28 tháng 5 năm 2010, Đại hội Phân hội Văn học thuộc Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu đã nhất trí đề xuất nhà văn Trang Thế Hy là chủ tịch danh dự trọn đời của Hội. Điều này một lần nữa khẳng định tài năng, nhân cách của nhà văn Trang Thế Hy
Sự nghiệp sác tác
Những chặn đường sáng tác:
Quá trình sáng tác của ông có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau 1975.
Trước 1975, Trang Thế Hy là một trong những cây bút nòng cốt của tờ Nhân Loại. Sức sáng tạo của ông trong giai đoạn này thật đáng nể. Với những bút danh khác nhau… ông liên tục xuất hiện trên hầu hết các số báo và cho ra đời hàng loạt tác phẩm: Áo lụa giồng (1957), Nắng đẹp miền quê ngoại (1957), Mỹ Thơ (1959), Thèm thơ (1959), Anh Thơm râu rồng (1965), Vui nhỏ trên đường dây (1970), Quê hương thứ hai của người du kích , Bên miệng hố bom đìa…
Giai đoạn sáng tác này, Trang Thế Hy dùng cách viết kín đáo xa xôi để gửi gắm những ý tưởng cháy bỏng của mình . Bởi thế, tác phẩm của ông nằm trong vùng địch kiểm soát nhưng vẫn theo chiều hướng đề cao kháng chiến, chống lại sự đô hộ của Mỹ, một lòng hướng về quê hương đất nước.
Sau năm 1975, là giai đoạn sáng tác mới, rất có chất lượng của Trang Thế Hy. Có thể kể đến những tác phẩm: Nợ nước mắt (1977), Một nghệ sĩ (1980), Sách và chim (1980), Bà mẹ già và thúng khổ qua (1982), Những người lấp hố bom (1983) Một nghệ sĩ (1984), Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư (1987), Về nhà trước cơn mưa (1988), Vết thương thứ mười ba (1988), Chút hào quang từ mảnh vỡ của một ngôi sao buồn (1989), Tiếng hát và tiếng khóc (1990) Người bào chế thuốc giảm đau (1990), Rác và hoa (1992), Hai người nhìn mưa dầm (1993),…
Trong hoàn cảnh mới của đất nước, của cuộc sống con người, ngòi bút của ông bộc lộ nhiều trăn trở, suy tư. Những trang viết chiêm nghiệm về đời, về nghề, về trách nhiệm của người cầm bút cũng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó quên. Trang Thế Hy còn sáng tác thơ. Thơ của ông cũng thâm trầm, sâu sắc về thân phận con người và cuộc đời. Với những gì đạt được, Trang Thế Hy đã khẳng định được tên tuổi và tài năng của mình bằng các giải thưởng văn học: Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội văn nghệ giải phóng miền Nam (1960 – 1965) cho truyện ngắn Anh Thơm râu rồng; Giải thưởng của Hội nhà vănViệt Nam năm 1993 với tập truyện Tiếng hát và tiếng khóc; Tặng thưởng loại A của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2002 cho tập truyện Nợ nước mắt.
Tác phẩm
· Nắng đẹp miền quê ngoại (truyện ngắn, 1964)
· Mưa ấm (tập truyện ngắn, 1981)
· Người yêu và mùa thu (truyện ngắn, 1981)
· Vết thương thứ mười ba (tập truyện, 1989)
· Tiếng khóc và tiếng hát (truyện ngắn, 1993)
· Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác (tập truyện ngắn, 2000)
· Đắng và ngọt (tập thơ, 2009).
Thành tựu nghệ thuật
· Nhà văn Trang Thế Hy từng được Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) với truyện ngắn Anh Thơm râu rồng; được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng khóc và tiếng hát.
· Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng khóc và tiếng hát
· Tặng thưởng loại A của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật VN năm 2001 cho tập truyện Nợ nước mắt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét