Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023
NGUYỄN HỒNG
Nguyên Hồng (1918-1982) là một tác giả Việt Nam, với tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, chuyên viết văn và thơ.
Tiểu sử
Nguyên Hồng, tên khai sinh Nguyễn Nguyên Hồng, là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 tại phố Hàng Cau, hiện nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định[2]. Cha ông là cai đề lao, sau thất nghiệp, gia đình sa sút và bị ảnh hưởng bởi nghiện ngập và bệnh lao, khiến cuộc sống trở nên khó khăn và cảnh nhà bị suy sụp. Mẹ ông là người đạo đức tốt, hiền hậu, tần tảo và hy sinh cho gia đình nhưng lại không được hạnh phúc trong cuộc sống gia đình.
Khi mới bước sang tuổi 7, 8, Nguyên Hồng đã cảm thấy rằng "thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau" và ông cũng là hậu quả của cuộc hôn nhân bị ép buộc này.
Năm ông 12 tuổi, cha Nguyên Hồng qua đời và mẹ ông phải lén lút bỏ đi, còn ông thì phải sống với bà nội và cô ruột và chịu đựng sự ghét bỏ, khinh miệt của họ. Tuổi thơ của ông đầy đau khổ vì thiếu thốn ăn mặc và tình thương. Nguyên Hồng phải đi làm để kiếm tiền trang trải cuộc sống và gặp phải nhiều tình huống xấu xa khi chạm trán với các nhóm trẻ trộm phá, bắt nạt trong các khu vườn hoa, cổng chợ, bến tàu, bến xe ô tô và sân bóng đá.
Khi mới 16 tuổi và vừa tốt nghiệp tiểu học, Nguyên Hồng phải bỏ học để cùng mẹ đi Hải Phòng kiếm sống. Mặc dù đã tìm việc ở nhiều nơi nhưng ông vẫn không tìm được công việc. Cuối cùng, ông dừng chân tại xóm Cấm và kiếm sống bằng nghề dạy học tư cho con em của người lao động nghèo.
Nguyên Hồng có niềm đam mê đọc sách từ nhỏ. Ông thường dành tiền thuê sách để đọc và dường như đã đọc hết tất cả những quyển sách mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định. Trong số các quyển sách ông thích đọc ở tuổi thơ, có truyện lịch sử Trung Quốc, với các nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng và hảo hán chiếm được cảm tình của ông.
Bắt đầu từ năm 1936, Nguyên Hồng đã viết văn, công bố truyện ngắn "Linh Hồn" trên tạp chí Tiểu thuyết thứ 7. Sau đó, năm 1937, ông đã được biết đến trên thị trường văn học với tiểu thuyết "Bỉ vỏ". Tác phẩm này đã tái hiện chân thực hình ảnh đời sống xã hội và số phận của những người bị bỏ rơi, nghèo khổ như Tám Bính và Năm Sài Gòn.
Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) tại Hải Phòng. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 1939, ông bị bắt giữ bởi mật thám và sau đó được đưa đến trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) vào năm 1940. Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với các tác giả nổi tiếng như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông đã trở thành một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là một trong những hội viên sáng lập của Hội nhà văn Việt Nam vào năm 1957.
Nguyên Hồng đã viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng là "Núi rừng Yên Thế" vào năm 1980. Tuy nhiên, ông đã qua đời đột ngột trước khi hoàn thành cuốn sách này, và nó vẫn dang dở đến tận bây giờ. Ông đã qua đời vào ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang) do đột tử, khi ông 63 tuổi. Vào năm 1996, Nguyên Hồng đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996) để tôn vinh đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.
Thể loại và khuyên hướng sáng tác
Sau Cách mạng, Nguyên Hồng tiếp tục chăm chỉ sáng tác, viết các thể loại văn học như tiểu thuyết, thơ, hồi ký, và đặc biệt là các tác phẩm tiểu thuyết sử thi dài. Tuy nhiên, từ những tác phẩm đầu tay, Nguyên Hồng đã dành tình cảm đặc biệt cho những người nghèo khó, gần gũi với cuộc sống của ông và với sự đồng cảm sâu sắc của một người đã trải qua nhiều thăng trầm. Nhận xét về phong cách sáng tác của ông, Nguyên Hồng được coi là "nhà văn của phụ nữ và trẻ em" bởi vì ông đã đặc biệt chú trọng đến hai đối tượng này trong các tác phẩm của mình, có lẽ vì những bất hạnh đã từng đối diện trong tuổi thơ của ông và hình ảnh người mẹ của ông.
Các tác phẩm tiêu biểu
Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938)
Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941)
Những ngày thơ ấu (hồi ký, đăng báo lần đầu năm 1938, xuất bản năm 1940)
Qua những màn tối (truyện, 1942)
Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942)
Quán nải (tiểu thuyết, 1943)
Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943)
Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943)
Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943)
Vực thẳm (truyện vừa, 1944)
Miếng bánh (truyện ngắn, 1945)
Ngọn lửa (truyện vừa, 1945)
Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946-1961)
Đất nước yêu dấu (ký, 1949)
Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951)
Dưới chân cầu Mây (tập truyện ngắn, 1951)
Giữ thóc (truyện vừa, 1955)
Giọt máu (truyện ngắn, 1956)
Trời xanh (thơ, 1960)
Sóng gầm (tiểu thuyết, 1961)
Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976)
Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963)
Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963)
Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972)
Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973)
Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973)
Sông núi quê hương (thơ, 1973)
Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976)
Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978)
Thù nhà nợ nước (tập I trong bộ tiểu thuyết về Khởi nghĩa Yên Thế, 1981)
Núi rừng Yên Thế (tập II trong bộ tiểu thuyết về Khởi nghĩa Yên Thế, 1993)
Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập Tập I: 1983, Tập II: 1984, Tập III: 1985)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét