Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

ĐOÀN NGUYỄN TUẤN


Tiểu sử

Đoàn Nguyễn Tuấn sinh ra tại làng Hải Yên, huyện Quỳnh Côi (nay là làng Hải An, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ), tỉnh Thái Bình. Ông là con của Hoàng đế Đoàn Nguyên Thục, tể tướng triều Lê Mạt, cháu rể Tiến sĩ Nhữ Đình Toản. Ông đã gặp Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), cha của Nguyễn Du và là anh rể của thi hào Nguyễn Du.

Ông đỗ kỳ thi Hương cống (cử nhân) đời Lê (khoảng niên hiệu Cảnh Hưng), nhưng không làm quan. Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh của Nguyễn Du, giữ chức Tổng đốc Sơn Tây, bị kết tội âm mưu và bị giam vào mùa thu năm Canh Tý ở nhà Quận công Châu. Lúc bấy giờ, Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn đưa về Sơn Nam Hạ nuôi nấng và học hành.

Khoảng năm 1786, ông chiêu dân làng bàn việc dấy binh giúp Trịnh Bồng nhưng không được, cuối năm 1787 ông cùng Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm lên đường giúp nhà Tây Sơn; Ông được bổ giữ chức Hàn lâm viện (1788) và được giao nhiệm vụ tiếp sứ nhà Thanh dự lễ đăng quang của vua Quang Trung vào tháng 9/1789.

Năm 1790, ông cùng với Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn được cử sang sứ giả Quang Trung sang Trung Quốc yết kiến ​​vua Càn Long. Đoàn Nguyễn Tuấn trong đoàn Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà đã gặp Nguyễn Du. Khi trở lại Hoàng Châu, gặp nhau ở quán trọ, hai người sôi nổi bàn luận về văn sử Hồng Nhan Dã Truân. Nguyễn Du về trước và hẹn ngày gặp lại ở Thăng Long. Về nước năm được thăng Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Hầu.

Sau khi vua Quang Trung đột ngột qua đời (1792), ông phò tá vua Cảnh Thịnh cho đến khi nhà Tây Sơn sụp đổ. Năm 1797, Nguyễn Đệ quy thuận Đoàn Nguyễn Tuấn lấy em gái họ Nguyễn là Đoàn Nguyễn Thị Huệ. Bạn. Đoàn Nguyễn Tuấn chỉ dẫn Nguyễn Du về sống ở Quỳnh Hải và chấm dứt cuộc đời gió bụi mười năm từ đây.

Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Đoàn Nguyễn Tuấn lúc đó ngoài 50 tuổi, có lẽ đã đến ẩn cư tại Phong Nguyệt Sào (Wind and Moon Nest), một túp lều trong vườn hoa của ông nép mình trong vịnh, còn được gọi là Sào Ông. Ông mất năm nào và không rõ ông có làm quan thời Gia Long hay không.

Tác phẩm

Đoàn Nguyễn Tuấn chỉ để lại một tập thơ chữ Hán của Hải Ông Thi (tức Tập thơ trường cũ Đoàn Nguyễn Tuấn), gồm: 236 bài thơ; 5 bài phú, củ hành, Ca...

Vì bài thơ không theo thứ tự nào trong bản thảo nên nhóm tác giả cuốn Thơ Văn Đoàn Nguyễn Tuấn căn cứ vào nội dung bài thơ đã chia làm hai phần:

Thơ văn làm ở trong nước: 139 bài.

Thơ văn làm khi đi sứ và bang giao: 102 bài.

Giá trị trong văn học Việt

Trong Hải Ông thi tập có:

Những bài ca chân tình, thiết tha ngợi ca tinh thần thượng võ của quân Tây Sơn đã đem lại thái bình thịnh trị cho đất nước; hoặc thể hiện niềm tự hào về văn hóa dân tộc như: “Kỷ Dậu Trọng Thư Thương đón sách sứ, Nguyễn Quế Kiên thiện tâm Dona thị Nhị Thư, chúc may mắn” (sáng sớm 20/10) trầm là thành công, vui viết thơ); “Về Nhị Hà Quan , lũy Bắc Việt quân” ​​(Vượt sông Nhị xem thành lũy cũ Bắc Việt);...

Cảnh, thơ ứng tác như: “Nguyễn Đức Giang hoài cổ” (Qua sông Nguyệt Đức nhớ xưa), “Qua lăng Tống Trân” (Qua lăng Tống Trân); ("Dục Thủy Sơn Hành" (Tập ở núi Dục Thủy), "Qua Tam Điệp Sơn" (Qua núi Tam Điệp), "Quá Đông Sơn Bố Vệ" (Qua Làng Bố Vệ, Đông Sơn),...

Những bài thơ tự sự, giàu cảm xúc trữ tình như: “Tại thành Đồ Bàn, khách ngoại kỷ tri huệ” (Trong quán ngoài Đồ Bàn làm giỗ cha); "Mùa thu, sau khi nhập kinh, mùa đông, mùa đông, mùa đông, mùa đông, khi ký ức của Tô Như Thị "Nhất Quân vỡ trong miệng Trần Mạt", con cú đã trở thành bốn may mắn ..." Zu Quan thoại phong thủy như bôn tẩu, sau xếp thành tứ tự từ năm ); “Tuệ Mật Đạt Xuân Kinh Tắc” (bài thơ viết vào dịp cuối năm khi đến kinh đô Phú Xuân); “khách cảm hoài” (cảm xúc khi đến kinh đô Phú Xuân) ở quán trọ); "Bạch của bạn" (Râu bạc); “Ta hãy thương nhau” (Tả lòng)...

Trong lãnh vực thơ sứ có nhiều bài rất hay (phần lớn là thơ sử) như: Xích Bích hoài cổ (Đối diện với đài Xích Bích nhớ xưa), Đăng Hoàng Hạc Lâu (Hoàng Hạc Piso). “Quả Trường”. Thành” (Vượt qua Vạn Lý Trường Thành), “Nhạc Dương Lâu phủ” (Bài phú Lâu Nhạc Dương)...

Ngoài ra, ông còn viết một số bài thơ về thân phận người phụ nữ như Đường Hòe Nhai), "Làm chủ nhân" (Hướng về người chị dắt con đi tìm chồng)... Rất đáng lưu ý bài hát "Untitled" (không có tiêu đề) ghi lại cuộc gặp gỡ. Bất ngờ với gái xinh Trung Quốc bên bờ sông Hàn (thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc). Đây là một “bài thơ tình thực chứng tỏ ông là người rất đa tình”.

Nhìn chung, Đoàn Nguyễn Tuấn là người điềm tĩnh, nho nhã, thơ mộng, chân chất, giản dị, yêu quê hương đất nước. Lời thuật của sách Tây Sơn hành hiệp (không rõ tác giả) là: Ở làng ông (Đoàn Nguyễn Tuấn) dựng một ngôi nhà sàn giữa vườn hoa gọi là Phong Nguyệt Sào (Tổ Gió Nguyệt). ở đó với tần suất. Bay, tự xưng là Sào Ông, dường như tự xưng là Sào Phú.

Về nghệ thuật, thơ ông nhiều hình ảnh trong sáng, ít điển cố, câu văn gãy gọn, tao nhã, gợi cảm... Việt Nam Bách Khoa Toàn Thư xếp hạng thơ Hải Ông như sau:

“Hải Ông thi tập” ghi lại những suy nghĩ và hoạt động trong thời gian Đoàn Nguyễn Tuấn làm quan. Có những bài hát thể hiện khí thế hào hùng, ca ngợi chiến thắng Đống Đa, hay tự hào về đất nước. Ngoài ra còn có các mục phản ánh những suy nghĩ buồn và chán nản. Thơ văn của ông được miêu tả là “có ý, có lỗi mà hài hòa, có suy nghĩ mà ngay thẳng” (Ngô Thì Nhậm) hay “văn chương nổi tiếng trong hàng, lạ lùng ngòi bút như có sức sống”. (Họ gốc là Tai [Zai], Jiangxi [Giang Tây], Trung Quốc.)

Hiện nay, ở khu phố Tân Quý Tây, H.Bình Chánh, TP.HCM có một con đường mang tên ông. Ở TP Huế, TP Đà Nẵng, TP Thái Bình và thị trấn Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình đều có tên đường. đường mang tên ông Đoàn Nguyễn Tuấn.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét