Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023
ĐÀO XUÂN QUÝ
Tiểu sử
Đào Xuân Quý (1924 - 2007) sinh tại Ninh Hoà, Khánh Hoà, là nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình. Ông còn dùng các bút danh Vũ Minh, Hoàng Hải.
Tác phẩm:
- Gió sông Hồng (1963)
- Đất này… năm tháng (1972)
- Trong màu nắng (1984)
- Gió và sóng (1992)
- Nhà thơ và cuộc sống (1998)
- Sử thi Ramayana (1985)
- Thơ Tây Ban Nha chiến đấu (1973)
- Thơ Langxtơn Hiughơ (1961)
- Thơ Pablo Neruda (1961, 1986)
- Lá cỏ (1978), thơ Walt Whitman dịch chung cùng Vũ Cận
- Thơ Tago (1982, 2000)
- Ngày đã đi qua (2001), dịch thơ Anh: Byron, Shelley và John Keats.
Người đưa thơ đi hóng gió sông Hồng
Trong bài Đọc thư (1939), là bài thơ đầu tay của mình, Đào Xuân Quý (1924-2007) viết rằng:
Có những bức thư người gửi đến
Đọc hoài nhưng vẫn thấy chưa xong
Có chỉ u uẩn trên trang giấy
Vương vấn ai nên phải bận lòng
Đó là lời thơ của một thanh mười sáu tuổi, biểu hiện tâm trạng u buồn man mác của thế hệ thanh niên trước Cách mạng tháng Tám, in đậm chất lãng mạn của một trí thức theo kiểu phương Tây cuối thế kỷ XIX. Quê gốc ở Tuy Phước, Bình Định, sinh ra và lớn lên ở Ninh Hòa, Khánh Hòa, cũng như Tế Hanh, Vương Linh và những người cùng thời ở các tỉnh miền Trung, Đào Xuân Quý đến với văn học bắt đầu từ việc say mê văn học lãng mạn Pháp, cùng với tâm trạng xa nhà, nhớ nhung và sự bế tắc của một lớp người không tìm ra một hướng đi đúng đắn. Văn học là cứu cánh; nơi gửi gắm tâm trạng u buồn, nơi nung nấu những khát vọng cao đẹp, những ước mơ cháy bỏng chưa kịp ươm mầm đã bị che lấp, vùi chôn trong bóng đêm của một xã hội nô lệ. Những bài thơ đầu tay được Đào Xuân Quý sáng tác khi còn học năm thứ hai hệ Cao đẳng tiểu học trường Khải Định (Huế) như Đọc thư, Trăng sáng mang giọng điệu của nỗi buồn, kiểu như Vu vơ, Lời con đường quê, Những ngày nghỉ học của Tế Hanh, hoặc nhẹ nhàng theo kiểu Phương Thanh của Vương Linh, cũng xuất hiện trong thời kỳ này.
Huế lúc bấy giờ là một trung tâm, nơi tập trung của thanh niên trí thức miền Trung. Âm vang và sức hút mạnh mẻ của các tên tuổi trong phong trào thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, và với sự giúp đỡ chí tình của những người đi trước này, đã tạo nên niềm tin và hứng thú cho Đào Xuân Quý đi vào con đường văn học. Những bài thơ bắt đầu đề cập đến lẽ sống, chết, số phận của con người một cách chung chung, như Ngày sau, Lửa, Địa ngục, và niềm khát khao được đổi thay, chuyển dời khỏi sự ngột ngạt của thực tại như Nửa đêm, Du tử, Gió, Đường xuân, là những bài thơ đầu tiên được in báo Thanh niên (cơ quan của Đoàn Thanh niên tiền phong ở Sài Gòn, do Huỳnh Tấn Phát chủ trì), sau khi có sự góp ý, giúp đỡ và động viên của Xuân Diệu.
Say mê và học tập Xuân Diệu, Huy Cận, mến tài Tế Hanh cùng ảnh hưởng môi trường xã hội và tâm trạng của thời đại, nhưng thơ Đào Xuân Quý có cách biểu tỏ riêng. Ông chưa có độ chín của sự nhớ thương day dứt của Tế Hanh và không say sưa cháy bỏng của những tình yêu đôi lứa như Xuân Diệu. Thơ ông là nỗi buồn chán, có khi rơi vào bi quan, bế tắc. Biểu hiện rõ ràng nhất là thời gian vào cuối năm 1943, thôi học, về quê Ninh Hòa, xa lánh cuộc sống ồn ào nhưng vô vị của kinh thành Huế, thủ đô của nhà nước phong kiến đang trên đà suy tàn, trượt xuống tận cùng của xã hội tối tăm. Những bài thơ ông viết trong thời gian này được tập hợp thành tập Kết đọng, là tiêu biểu cho một thế giới nội tâm khao khát muốn đổi thay nhưng không thể nào thực hiện được, nhìn vào đâu cũng thấy đêm tối, sự nguội lạnh của tâm hồn, làm mòn mỏi những mơ ước xa xăm. Một chút gì man mác của nỗi u buồn vô cớ, vu vơ; của sự bắt đầu con đường thơ của thuở học trò, một chút băn khoăn day dứt còn phản chiếu màu trắng trong của người mới đặt chân lên đầu dốc của cuộc đời, cũng không thể nào giữ nổi “Bao nhiêu đau khổ lan đầy như biển cả, và lòng ta là hạt muối trắng tinh” – ngay tiêu đề của tập thơ cũng đủ nói lên rằng nỗi đau khổ, chán ngán vì thực tại xã hội đã kết đọng thành tiếng thơ u ám đến vô cùng:
Ngày xưa lửa cháy trên trần thế
Cháy giữa đền vua, giữa điện thờ
Ngày nay lửa tắt, đời dang dở
Tội lỗi tràn lan chẳng thấy bờ
(Lửa)
Nỗi buồn trong thơ Đào Xuân Quý trước Cách mạng tháng Tám không găm sâu vào cái tôi cá nhân, xoay quanh nỗi đau cá nhân như tâm trạng cô đơn của chủ nghĩa lãng mạn, mà là cái hiu hắt, chên vênh của sự cô độc, lấp lánh xa xôi tia sáng nhỏ của nỗi niềm khát khao muốn đổi thay. Trong bầu trời âm u, nguội lạnh lại ánh lên nỗi chờ mong bước đi của thời cuộc.
Sau chuyến đi Hà Nội, rồi thôi học về quê, từ quê ông vào Sài gòn đi làm báo. Không xuôi thuyền mát mái, lại phải quay trở lại quê. Bởi lẽ, bị bao bọc trong môi trường trí thức tiểu tư sản, những biến động của cuộc vận động cách mạng chưa đủ sức lay động tâm hồn nhà thơ. Cho đến gần giữa năm 1944, ông thật sự không còn tin tưởng gì vào môi trường của xã hội trí thức, am hiểu những nỗi đau và ước mơ lớn lao của người dân quê ông. Chính ở đây đã ánh lên trong tâm hồn u tối, đơn độc của ông những mảng sáng của niềm tin, đưa ông đi theo con đường cách mạng của Đảng. Con đường của người làm thơ trẻ Đào Xuân Quý đến với cách mạng không phải là con đường thơ ca, không phải thông qua thơ ca như những người cùng thời. Và, cũng không phải nhanh chóng trở thành nhà thơ cách mạng thông qua công tác, chiến đấu. Ông đến với cuộc đấu tranh chung của nhân dân, bằng lối rẽ của một cán bộ chính trị, rồi một cán bộ giáo dục, cán bộ chính trị trong quân đội, hầu như bỏ hẳn con đường thơ đã nhen nhúm từ đầu đời, bước sang con đường của người cán bộ cách mạng với ý thức trách nhiệm, thực hiện đúng yêu cầu của nhiệm vụ. Đó cũng là sự thiệt thòi cho ông trong bước đường sáng tạo và phần nào làm ảnh hưởng đến chất lượng thơ ông sau này. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, ông chỉ làm một bài thơ duy nhất, thể hiện tâm trạng say sưa phấn khởi trước bước ngoặt lớn của cách mạng – bài Triều xuân (1946) – nhưng rồi cũng nhanh chóng rơi vào quên lãng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét