Ông Trần Tuấn Kiệt, với bút hiệu là Sagiang Trần Tuấn Kiệt và Trần Tuấn Kiệt , sinh ngày 01 tháng 6 năm 1939, ngày 14 tháng 4 năm Kỷ Mão , tại Tân Qui Đông – Xóm Bún , Sa Đéc và theo Bà Ngọai tản cư lên Sàigon sống lúc 11 tuổi , Việt Nam .
Cha là Trần Phi Điểu và Mẹ là Nguyễn Thị Hay , mẹ bịnh và mất sớm lúc ông mới 9 tuổi , khi đang chạy giặc tản cư bên cồn ở Sa đéc , nay vùng đất ấy đã bị sông cuốn lỡ đi hết .
Ông theo ở với Bà Ngọai : Phan thị Ngọc ( vốn giòng họ từ Miền Trung vào ) và cậu Tư và cậu Năm là Phan văn Vàng làm việc tại Tối Cao Pháp viện . Ông cũng có 1 người em trai bị bệnh mất từ nhỏ .
Cha ông ( có tham chiến ở trận Điện Biên Phủ ) sau này có thêm vợ sau theo đạo Công giáo và sau này bà tự hốt cốt ông , đem về để tại Nhà thờ Xóm củi , rồi sau đó đem đi mất chưa biết ở đâu !
Ông theo học ở trường Tân Thanh với các giáo sư như Nguyên sa , Bùi Giáng …và sau học tại trường Quốc gia Âm nhạc về bộ môn thổi sáo và đàn tranh , cùng với Nguyễn Tấn Đời Hoan , sau đó ông chuyển qua làm thơ . Về võ ông theo học của Thầy Sáu Hàn Giang Nhạn .
Ông rất thích chơi gà đá và đã có nhiều bài báo nói về chuyện đá gà của ông . Nhà của ông ở nhiều nơi như : 122/57/11 Phát diệm Quận II – Sài gòn – Nguyễn Thái Bình ( 1960 – 1963 ) , đừơng Vạn Kiếp ( 1964 ) , 524/2 Phan Đình Phùng – gần chợ Bàn cờ ( 1966-1973) ( hiện là đừơng Nguyễn Đình Chiểu Q3 , khu Bàn Cờ ( 1971-72 ) , Thị Nghè ( 1973 – nay 2013 , trại Gia Binh – lính Phòng vệ Phủ Tổng thống ) v.v..
Ông chủ trương không đám cưới bao giờ , kể cả không bao giờ đi dự đám cưới . Ông chủ yếu sống với sự đơn giản . Sống cùng với vợ có 7 đứa con trai và gái và các cháu . Các con ông đều có viết các lọai sách như truyện tình cảm , may mặc , võ thuật , thơ , văn , nấu ăn , tranh , ảnh nghệ thuật … Con gái lớn hiện ở London , với bút hiệu là Nam Nhiên .
Trong đời ông có rất nhiều bạn hữu , bạn bè hầu hết là trong giới nghệ sĩ , nhà văn , nhà thơ , nhà báo , họa sĩ , lính , tụ tập tại nhà ông ở tại Phan Đình Phùng , gần chợ Vừơn Chuối , ngày nào cũng có cả chục người bạn ăn dầm nằm dề tại nhà , bàn chuyện văn nghệ , trong đó cũng có các bạn nằm vùng sau này mới biết như họa sĩ Hòai Nam ( sau 75 ông HN trở về quê cũ bị bắt nhốt vì bà con sợ ông về quê đòi lại nhà cũ )…
Trần Tuấn Kiệt sống bằng nghề cầm bút. Ngoài 2 bút hiệu chính trên ông còn có nhiều bút hiệu khác như Việt Thần, Việt Long, Duy Thức , Hồng Lĩnh , … ông viết thơ , sách võ thuật, Truyện dài , Truyện dã sử , Tín ngưỡng … trước 1975 bán cho nhà sách Khai Trí và các nhà xuất bản do người Hoa làm chủ .
Ông mở nhà xuất bản Hồng Lỉnh từ 1970, với sự giúp đỡ của người chị vợ đưa 20 lượng vàng để lập nên Nhà xuất bản trên .
Trong đời ông có nhiều người tình và các tập thơ tình cũng có nhắc đến ít nhiều .
Từ cuối thập niên 50 đến 75 ông đã cộng tác với báo Sinh Lực của Đồng Tân, Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Vui Sống của Bình Nguyên Lộc, Sống của Chu Tử, Nghệ Thuật của Mai Thảo…
Ông chiếm giải nhất sáng tác VHNT quốc gia của Tổng Thống VNCH về thơ năm 1970 với thi tập Lời Gởi Cây Bông Vải , với giải thưởng khỏang 400.000 VN đồng thời bấy giờ ( vàng khỏang 25.000 / 1 lượng , căn nhà hiện nay ông đang ở , mua vào thời điểm 1973 của Ông Hà Thúc Sinh , chỉ có giá 300.000 vnđ ) và súyt chiếm giải thưởng Văn Học Nghệ thuật Quốc gia vào năm 1971 , lúc ấy ông đang ở tù vì tội không chịu đi lính .
Trong thời gian ông ở tù thời trước 1975 , ông đã ở qua các trại như Quân lao , B5 , TT 3 Quản trị (?) … đã có lần ông vượt thóat khỏi trại Trung Tâm 3 (?) qua cổng chính để về nhà .
Năm 1971 khi ông đang ở tù , với mức án 10 năm lao công đào binh vì không chịu đi lính , vợ ông là Bà Phan thị Xuân Hương ( O Hường – vốn con cháu của vị quan làm việc trong triều – đi thuyền qua Quãng Ngãi bị bão đánh đắm , nên dừng lại tại đó , sau này vào Huế sinh sống – hiện vẫn còn 1 chi ở Quãng ngãi ) .
Bà đã bồng đứa con trai nhỏ mới sinh vài tháng , cùng với Họa sĩ Nghêu Đề , chạy khắp nơi để xin chữ ký của 100 vị nhân sĩ thời bấy giờ , trong đó người đứng đầu ký tên Bản Kiến nghị là Linh mục Thanh Lãng và các nhân sĩ tiếp theo gồm 100 người , ông đã được Tổng thống Thiệu ân xá vào ngày Ba Mươi tết 1971 để về nhà với vợ con .
Tác phẩm :
Thơ :
1- Thơ Trần Tuấn Kiệt ( 1963)
2- Nai ( 1964 )
3- Bài ca thế giới ( 1964 )
4- Cổng gió ( 1965 )
5- Triều miên ngâm khúc ( 1966 )
6- Lời gởi cây bông vải (Giải nhất văn học quốc gia 1970) (in 1969 )
7- Niềm hoan lạc thần linh và ngục tù ( 1971 )
8- Ngôi đền cổ
9- Cỏ nội .
10 – Mê cung .
11- Màu kỷ niệm .
12 – Trừơng ca làn chớp .
13 – Thái hằng ( 1990 )
14 – Mục tử ca ( 2010 )
15 – Một thoáng mơ hoa ( 2013 )
16- Mộng tưởng
17- Ca khúc hoàng hôn
18- Nghịch hành
19- Thi tuyển TTK
20- Quán cơm chiều
21- Trăng khuê các
22- Vọng cố nhân
23- Mục tử ca
24- Cung điện vĩnh hằng
25- Tặng vật
26- Hồng hạc
27- Lạc Đạo thi
Truyện dài :
· Sa Mạc Lan Dần
· Tiếng Đồng Nội
· Hồng Cẩu quẩy
Võ thuật :mấy chục quyển sách
– Dịch cân kinh
– Thái cực quyền
– Lan hán quyền …
– Sách thuốc nam – không xin xuất bản được .
Dã sử :
– Quật Mộ Tào Tháo
– Quật Mộ Tần Thủy Hòang
– Linh sơn nghĩa sĩ
– …
Biên khảo thơ văn :
· 1000 năm Thi Ca Việt Nam Hiện Đại
· Tác giả Tác phẩm trước 1975
· Tác giả Tác phẩm sau 1975 – tự in .
Tôn giáo tín ngưỡng :
· Tín Ngưỡng Thần đạo Việt Nam còn gọi là Đại Việt Thần đạo ( 2000 – 2008 ? ) viết tay 15.000 trang chưa in với sự cộng tác và sưu tầm của nhiều người bạn và các tác giả khác .
Ông muốn đưa tác phẩm của mình đến tay công chúng , không chú trọng tiền bản quyền nhiều hay ít , trả theo tự chọn , chủ yếu là phổ biến đến công chúng yêu thích thơ và nghiên cứu về Tín Ngưỡng Thần đạo của Việt Nam , để cho các bạn đọc có thể ủng hộ , đóng góp theo khả năng của chính mình , để nhằm phát triển rộng rãi thơ và Thần đạo Việt nam đến tất cả mọi người .
0 nhận xét:
Đăng nhận xét