Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

CHẾ LAN VIÊN


Chế Lan Viên là một tác gia hiện đại của Việt Nam, sinh năm 1920 và mất năm 1989. Tên khai sinh của ông là Phan Ngọc Hoan và ông được biết đến là một nhà thơ và nhà văn.

Cuộc đời văn nghiệp

Chế Lan Viên là một nhà thơ và nhà văn hiện đại Việt Nam, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Sau khi học tại Quy Nhơn, Bình Định, ông không tiếp tục học và trở thành một giáo viên tự do. Đây có thể được coi là quê hương thứ hai của ông, nơi đã gợi mở những cảm xúc sâu sắc trong lòng của một thi sĩ tài ba.

Chế Lan Viên đã bắt đầu viết thơ từ khi mới 12, 13 tuổi và ấn hành tập thơ đầu tiên với bút danh Chế Lan Viên khi mới 17 tuổi. Tập thơ này có tên là Điêu tàn, đồng thời là tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Trong tập thơ này, Chế Lan Viên đã thể hiện cảm xúc của mình về một Đế chế Chiêm Thành đã đi vào lịch sử và đã tự gán cho mình cái tên Chế Lan Viên, trong khi tên thật của ông là Phan Ngọc Hoan và sinh ra tại Quảng Trị. Ông đã chia sẻ tình cảm xót thương với một triều đại đã từng là "Giặc phương Nam" của nước Việt ta và đã bị các Vua Việt Nam xóa sổ. Cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Quách Tấn, Chế Lan Viên được coi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.

Năm 1939, Chế Lan Viên đi học tại Hà Nội trước khi chuyển đến Sài Gòn làm báo và sau đó sang Thanh Hóa dạy học. Vào năm 1942, ông xuất bản tập văn Vàng Sao, gồm các bài thơ triết lý về cuộc sống với sắc thái siêu hình, huyền bí.

Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông gia nhập phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi tiếp tục tham gia Đoàn xây dựng tại Huế cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư và Đào Duy Anh. Trong thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và biên tập cho các tờ báo Quyết thắng, Cứu quốc và Kháng chiến. Phong cách thơ của ông trong giai đoạn này dần chuyển sang trường phái hiện thực. Vào tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1954, Chế Lan Viên đến Bắc làm biên tập viên cho báo Văn học. Từ năm 1956 đến 1958, ông công tác tại phòng văn nghệ của Ban tuyên huấn trung ương, trước khi trở lại làm biên tập cho tuần báo Văn học (sau đó là báo Văn nghệ) cho đến cuối năm 1958. Từ năm 1963, ông là ủy viên thường vụ của Hội nhà văn Việt Nam và ủy viên ban thư ký của Hội. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong các khóa IV, V và VI, và ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.

Sau năm 1975, Chế Lan Viên sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông qua đời vào ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, khi ông được 68 tuổi. Năm 1996, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật bởi nhà nước Việt Nam.

Con gái của ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.

Phong cách

Chặng đường thi ca của Chế Lan Viên được đánh dấu bằng nhiều thăng trầm, khúc ngoặt, với sự tìm tòi, phấn đấu không ngừng nghỉ của nhà thơ[2]. Thậm chí có một thời gian dài im ắng từ 1945 đến 1958.

Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một tiêu biểu chân thực của “cõi thơ hỗn độn”: “rùng rợn, huyền bí, bế tắc như thời đại hấp hối[3], đầy xương máu, đầu lâu người, cùng cảnh phế tích và tháp Chăm.” Những tháp Chăm “đang hấp hối” là nguồn cảm hứng đáng kể cho Chế Lan Viên. Qua những đổ nát và những yếu tố hãi hùng trong thơ ông, người ta có thể cảm nhận được sự hiện diện của một vương quốc hùng mạnh một thời trong thời Hoàng kim, và nỗi hoài niệm của nhà thơ.

Sau Cách mạng Tháng Tám, thơ Chế Lan Viên “ôm trọn cuộc đời nhân dân đất nước, thấm đẫm ánh sáng cách mạng”[4], có những chuyển biến rõ rệt. Giai đoạn 1960 - 1975, thơ ông phát triển theo phong cách anh hùng ca, mang thông điệp chính trị mạnh mẽ. Sau 1975, “thơ Chế Lan Viên trở về với những phức tạp của cuộc sống và những đấu tranh của cái tôi, trong một thế giới đa diện, thường trực và phức tạp”[5].

Phong cách thơ Chế Lan Viên khác biệt, độc đáo, thể hiện sức mạnh trí tuệ và những suy tư triết lí. “Những suy tư triết học được chuyển tải một cách đẹp đẽ qua sự đa dạng, phong phú của hình tượng, được tạo nên bởi một ngòi bút thông minh và tài hoa”[6]. Anh ấy khám phá sâu các yếu tố tương phản và khả năng đặc biệt của anh ấy trong việc tạo ra hình ảnh phong phú và có ý nghĩa nổi bật nhất.

Quan điểm và tính cách

Chế Lan Viên nổi tiếng là người bộc trực, thích tranh luận. Khi tranh luận hay chỉ trích, anh ấy thẳng thừng và kịch liệt, không nể nang bất kỳ ai, dù họ là đồng nghiệp cấp cao hay bạn bè thân thiết. Nhiều nhà thơ, nhà văn như Phan Khôi, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Yến Lan, Nguyễn Văn Bổng, Bùi Hiển, Hoàng Minh Châu… đã phải nghe và đọc những lời phê phán gay gắt của ông. Chế Lan Viên nổi tiếng thích tranh luận đến nỗi khi ông và nhà thơ Nguyễn Viết Lãm đi công tác ở Hungary về, Vũ Thị Thường đã hỏi: “Hai người cãi nhau à?” Xuân Diệu nói: "Bây giờ anh ấy đáng sợ thật đấy, nhưng hồi còn trẻ và viết Điêu tàn xử sự anh ấy rất khiêm tốn." Chế Lan Viên cũng khuyến khích các nhà thơ, nhà văn mạnh dạn phản ánh những vấn đề xã hội, thôi thúc họ “

Mặt khác, theo nhà phê bình Mai Quốc Liên, Chế Lan Viên còn là người nhạy cảm, dễ xúc động và vị tha.

Chế Lan Viên cho rằng thơ và văn là của trí tuệ, không dễ bị thỏa hiệp. Bài thơ “Người đã thay đổi cuộc đời tôi” anh gửi cho Đài Tiếng nói Việt Nam lúc đầu dài 80 trang nhưng trước khi phát sóng, anh đã thu lại để chỉnh sửa, cắt xuống chỉ còn 2 trang. Ông cũng đặc biệt không khoan nhượng đối với những trường hợp mà ông cho là có sai sót về mặt chính trị hoặc học thuật.

Chế Lan Viên có tài biện luận và giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp của anh ấy không chỉ nhạy bén mà còn kịp thời và nhanh chóng. Với sự uyên bác và khả năng hùng biện, ông nhận được sự ngưỡng mộ của nhiều đồng nghiệp văn chương trong và ngoài nước. Xuân Diệu nhận xét: “Cãi Chế Lan Viên khó lắm, rõ ràng bác đúng nhưng cuối cùng bác lại sai”. Nam Trân từng nhận xét: “Chế Lan Viên đi ngoại giao giống như một sứ thần”. Nhà văn Anh Đức cho rằng: "Khả năng đối đáp của Chế Lan Viên được thể hiện rõ trong các cuộc họp. Ông nói năng có lý, có hình tượng, giàu sức thuyết phục. […] Nếu ở thời vua chúa thì ông phải đi công tác ngoại giao." Nhìn chung, cộng đồng văn học tôn trọng và ngưỡng mộ ông.

Các bút danh

Chế Lan Viên là một tác giả nổi tiếng, sử dụng bút danh này để miêu tả mình như một bông hoa lan trong khu vườn nhà họ Chế, dòng họ vua chúa của dân tộc Chăm ở nước Chiêm Thành xưa. Tuy nhiên, ông cũng đã sử dụng nhiều bút danh khác nhau trong suốt sự nghiệp viết lách của mình. Trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu, đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958, ông ký bút danh Thạch Hãn, tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê ông. Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975, ông cũng ký bằng bút danh này. Trong thời gian làm biên tập báo Văn học từ năm 1959 đến năm 1963, ông phụ trách chuyên mục Nói chuyện văn thơ và trả lời bạn đọc dưới bút danh Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học đã cho xuất bản hai tập Vào nghề và Nói chuyện văn thơ của tác giả Chàng Văn. Trong mục Nụ cười xuân trên báo Văn học, Chế Lan Viên đã viết hai bài viết ngắn là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn ký tên Oah (tức Hoan).

Đời tư và gia đình

Vào năm 1943, Chế Lan Viên kết hôn lần đầu với bà Nguyễn Thị Giáo - con gái của một đại phú hào, được nhà thờ Quách Tấn gợi ý và giúp đỡ. Quách Tấn cũng sắp xếp hôn nhân khi gia đình bà Giáo phản đối do Chế Lan Viên chưa có sự nghiệp. Họ có ba người con là Phan Lai Triều, Phan Trường Định và Phan Thị Chấn Thanh. Tuy nhiên, sau khi Chế Lan Viên sang Trung Quốc chữa bệnh, cuộc hôn nhân gặp phải sóng gió và hai người ly dị vào năm 1959.

Chế Lan Viên kết hôn lần thứ hai vào năm 1961 với nhà văn Vũ Thị Thường, tên thật là Lê Thị Kim Nga, sinh năm 1930 tại thôn Tả Thanh Oai, xã Đại Thành, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Bà là tác giả truyện ngắn Cái hom giỏ đoạt giải A cuộc thi truyện ngắn báo Văn học năm 1958 và hoạt động trong lĩnh vực báo chí và phong trào phụ nữ. Sư mai mối của Chế Lan Viên và bà Thường là nhà văn Nguyễn Thành Long. Hai người có hai con là Phan Thị Thắm và Phan Thị Vàng Anh. Sau khi Chế Lan Viên qua đời, bà Thường sưu tầm và biên soạn các bài thơ chưa được xuất bản của ông để công bố thành 3 tập Di cảo thơ.

Tác phẩm chính

Thơ
Điêu tàn (1937), 37 bài thơ
Gửi các anh (1954), 13 bài thơ
Ánh sáng và phù sa (1960), 70 bài thơ
Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), 49 bài thơ
Những bài thơ đánh giặc (1972)
Đối thoại mới (1973), 64 bài thơ
Ngày vĩ đại (1976)
Hoa trước lăng Người (1976), 12 bài thơ
Dải đất vùng trời (1976)
Hái theo mùa (1977), 75 bài thơ
Hoa trên đá I,II (1984 - 1988), 15 và 16 bài thơ
Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985 tập II, 1990)
Ta gửi cho mình (1986)
Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995)
Tuyển tập thơ chọn lọc

Văn
Vàng sao (1942)
Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963)
Những ngày nổi giận (bút ký, 1966)
Bác về quê ta (tạp văn, 1972)
Giờ của đô thành (bút ký, 1977)
Nàng tiên trên mặt đất (1985)

Tiểu luận phê bình
Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952)
Nói chuyện thơ văn (1960)
Vào nghề (1962)
Phê bình văn học (1962)
Suy nghĩ và bình luận (1971)
Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976)
Nghĩ cạnh dòng thơ (1981)
Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
Ngoại vi thơ (1987)
Nàng và tôi (1992)



0 nhận xét:

Đăng nhận xét