Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

PHAN HUY THÔNG


Phạm Huy Thông là một tác giả Việt Nam với đa tài nghệ thuật, giáo dục và khoa học xã hội, sinh năm 1916 và mất năm 1988.

Tiểu sử

Phạm Huy Thông, sinh vào ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, thuộc một gia đình giàu có và có tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của Phạm Ngũ Lão và thế hệ thứ 48 của thượng thủy tổ Phạm Tu. Quê gốc của ông nằm ở làng Đào Xá, Đào Quạt, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Cha ông là Phạm Chân Hưng, nhà tư sản giàu có, chủ hiệu vàng Chân Hưng (quê gốc Hưng Yên), là người giàu có tiếng ở phố Hàng Bạc trước Cách mạng Tháng Tám, cũng chủ tờ báo Nông-Công-Thương, chủ tịch khu Đông Kinh Nghĩa Thục (bao gồm phố Hàng Bạc và nhiều khu phố lân cận), và chủ tịch Tuần lễ vàng đầu tháng 9-1945 do Hồ Chí Minh phát động.

Từ nhỏ, ông đã tỏ ra có trí thông minh. Ở tuổi 16, ông đã nổi tiếng là một trong những tiên phong của phong trào Thơ mới, đặc biệt là với bài Tiếng địch sông Ô. Tuy nhiên, thơ ca không phải là niềm đam mê duy nhất của ông. Khi 21 tuổi, ông đã đỗ cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương.

Học tập tại Pháp

Vào năm 1937, ông sang Pháp để theo học các ngành Sử, Địa, Luật, Kinh tế, và Chính trị trên đại học. Ở tuổi 26, ông đỗ thành công kỳ thi Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Sử địa tại Pháp. Sau đó, ông được phong chức Giáo sư và trở thành Uỷ viên hội đồng giáo dục tối cao của Pháp khi ông 31 tuổi. Năm 1946, ông được chọn để giúp đỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại hội nghị Fontainebleau ở Paris. Ông đã chọn con đường sự nghiệp sau khi được gần gũi với Hồ Chí Minh trong những ngày ấy. Năm 1949, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, sau đó vào năm 1953, ông gia nhập Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1952, ông trở thành người phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại. Trong năm đó, ông bị trục xuất từ Pháp và trở về Sài Gòn. Vào đầu năm 1955, chính quyền Pháp bắt giữ ông và đưa ông về Hải Phòng để quản thúc.

Hoạt động ở Việt Nam

Sau khi thoát khỏi tù, Phạm Huy Thông đã đảm nhiệm nhiều cương vị quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và khoa học xã hội, bao gồm hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967-1988), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại biểu Quốc hội khóa II, III.

Trong thời kỳ chống Nhân văn - Giai phẩm, Phạm Huy Thông cũng đã viết bài phê phán nhà triết học Trần Đức Thảo trong chiến dịch đấu tố ông. Sau đó, Trần Đức Thảo đã thừa nhận rằng cách thức tố cáo ông đã làm cho ông bị xấu mặt với đám văn nghệ sĩ cán bộ.

Năm 1987, ông được bầu làm Viện sĩ nước ngoài của Viện hàn lâm Khoa học Cộng hoà Dân chủ Đức. Tuy nhiên, ông đã qua đời trong một vụ án mạng bí ẩn tại nhà riêng vào ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội, khiến cho bạn bè và người quen bất ngờ và xót xa.

Phạm Huy Thông là một người có tài tổ chức và kinh nghiệm lãnh đạo đặc biệt. Dưới sự lãnh đạo của ông, Viện Nghiên cứu Khảo cổ học đã nghiên cứu và thành công trong nhiều đề tài quan trọng, bao gồm "Thời đại các Vua Hùng dựng nước", "Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên" và "Khảo cổ học với văn minh thời Trần". Những đóng góp của ông đã giúp Việt Nam trở thành một quốc gia có nền khảo cổ học mạnh tại Đông Nam Á. Ngoài ra, ông còn là một nhà thơ được nhắc đến trong cuốn "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh và Hoài Chân.

Theo GS Phan Huy Lê, Phạm Huy Thông là một nhà trí thức đa tài trên nhiều lĩnh vực, từ thi ca đến luật học, sử học và khảo cổ học. Tuy nhiên, niềm đam mê suốt đ

GS Phan Huy Lê cho biết, Phạm Huy Thông là một học giả có trí tuệ đa năng và tài năng vượt trội trong nhiều lĩnh vực, từ thi ca, luật học, sử học đến khảo cổ học. Tuy nhiên, lịch sử luôn là đam mê vĩnh cửu của ông và tác phẩm, hoạt động xã hội của ông đều phản ánh sự chấn thực và sâu sắc của chất sử. Năm 2000, ông được vinh danh giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ, bao gồm Con Moong, trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận về thời đại Hùng Vương. Tên của ông cũng được đặt cho một con đường ven hồ Ngọc Khánh ở Hà Nội và một con đường mới tại quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh, được xem là đường đẹp nhất với quảng trường rộng lớn.

Danh sách các tác phẩm của Phạm Huy Thông bao gồm những tác phẩm sau đây:

Thơ:
Tiếng địch sông Ô (1936)
Con voi già
Anh-Nga (1936)
Tiếng sóng (1934)
Yêu-đương (1934)

Sử học, Khảo cổ học:
Thời đại các Vua Hùng dựng nước
Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên
Khảo cổ học với văn minh thời Trần

Phạm Huy Thông đã đạt được nhiều giải thưởng và thành tựu trong lĩnh vực văn học và nghiên cứu lịch sử, bao gồm:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (năm 2000) cho các công trình nghiên cứu về Con Moong, trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận thời đại Hùng Vương.
Tên của ông được đặt cho một con đường vòng quanh hồ Ngọc Khánh tại Hà Nội và một con đường tại quận Gò Vấp TP. Hồ Chí Minh.
Tác phẩm "Tiếng địch sông Ô" của ông được xem là một trong những tác phẩm thơ lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Các công trình nghiên cứu lịch sử của ông, bao gồm "Thời đại các Vua Hùng dựng nước", "Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên" và "Khảo cổ học với văn minh thời Trần", được đánh giá cao về tính chất nghiên cứu, phong phú và sâu sắc.







0 nhận xét:

Đăng nhận xét