Tiểu sử
Tô Thùy Yên tên thật
là Đinh Thành Tiên, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gò Vấp. Cha là chuyên
viên phòng thí nghiệm Viện Pasteur Sài Gòn, sau về công tác ở Bệnh viện Chợ Rẫy.
Thuở nhỏ học trung
học Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, có ghi danh theo học ở Trường Đại học Văn
khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở.
Ông bắt đầu có thơ
đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) trước khi xuất hiện và nổi tiếng trên tạp
chí Sáng Tạo. Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy
Thanh, Ngọc Dũng là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác
đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ Tự Do" trên văn
đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Ông là người miền Nam duy nhất trong nhóm Sáng
tạo.
Cuối năm 1963 ông
nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị. Chức vụ cuối cùng là thiếu tá,
trưởng phòng Tâm lý chiến.
Tô Thùy Yên lập gia
đình với vợ chánh là bà Huỳnh Diệu Bích, nhưng có thời gian ông chung sống và
có con với nhà văn nữ Nguyễn Thị Thụy Vũ.
Sau Sự kiện 30
tháng 4 năm 1975, ông bị nhà cầm quyền cầm tù ba lần, tổng cộng gần 13 năm. Cuối
năm 1993 cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư theo dạng tù nhân chính trị ở Saint
Paul, Minnesota rồi sau chuyển về sống ở Houston, tiểu bang Texas.
Ông mất ngày 21
tháng 5 năm 2019 tại Texas.
Tác phẩm
Thơ tuyển (xuất bản
ở Đức năm 1994; Minnesota, Hoa Kỳ, 1995)
Thắp Tạ (An Tiêm,
Houston, Hoa Kỳ, 2004).
“ Khắc khoải lòng –
thơ Tô Thùy Yên”
Tô Thùy Yên từng là
sĩ quan trong quân đội Sài Gòn, từng bị đi cải tạo nhiều năm sau 1975. Nhưng đọc
thơ anh, chỉ thấy đau đớn, chỉ thấy xót xa và chỉ thấy một tâm hồn Việt không
bao giờ muốn tách rời khỏi đất Mẹ của mình.
Cách đây chừng hơn
25 năm, vào độ cuối xuân, tôi có viết một bài thơ theo dạng cũ. Tôi vốn ít khi
viết dạng thơ này, nhưng khi nhìn bông hoa hồng trồng trong chậu trên gác nhà
mình, tự nhiên những câu thơ có vần chợt đến:
“Cuối xuân cây lá
rung dìu dịu
Mình anh đối diện với
hoa hồng
Con đường chợt khuất
mưa rào níu
Vệt bánh xe buồn tới
nẻo không
Bao người đã sống
bao người sống
Nghe tiếng kêu chi
khắc khoải lòng” (Không đề)
25 năm sau, tôi muốn
mượn lại câu thơ mình để viết về thơ của nhà thơ Việt hải ngoại Tô Thùy Yên:
“Nghe tiếng kêu chi khắc khoải lòng”.
Đúng là ở đời, dù
ta muốn cách mấy, thì buồn vẫn nhiều hơn vui. “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”
nhưng tính buồn vẫn nhiều hơn tính vui. Chỉ có điều khi ta buồn, có lẽ chất người
của ta lại nhiều hơn khi ta vui. Tôi chợt nhớ bài thơ Uống rượu với bạn đồng
hương – một bài thơ thật cảm động của nhà thơ Yến Lan – nhớ nhất đoạn thơ này:
“Rồi năm tháng cách
xa
Thành công chen thất
bại
Có nỗi buồn khỏe ra
Có niềm vui chạnh
mãi”
Nếu có niềm vui,
khi nghĩ lại, khiến ta chạnh lòng, thì nhiều phen một nỗi buồn thanh sạch lại
khiến lòng ta như “khỏe ra”. Cái khỏe ra của tâm hồn, không phải dễ để nhận thấy,
nhưng nó hoàn toàn có thật.
Thơ Tô Thùy Yên lặng
lẽ. Dù anh viết dài hay viết ngắn, thì thơ ấy vẫn lặng lẽ. Người đọc đồng cảm với
thơ ấy, cũng trong lặng lẽ. Đó là thơ của Chim kêu bãi quạnh, hắt hiu và đau đớn:
“Cởi đôi giày vẹt,
tấm áo tả
Xót xa như lột một
lần da” (Chim kêu bãi quạnh)
Thơ ấy nhiều khi
như bâng quơ, mà găm vào ta thật sâu:
“Mai có ai về ngang
quãng sông này,
Xin ném cho hòn đất
hỏi thăm” (Viễn Tây)
Khi người ta đã thấu
lẽ tử sinh, đã thấu suốt phận người, thì:
“Nhớ, như cỏ, xô
tràn…
Mơ, như mây, tản mạn…”
(Đại Bình Nguyên)
Một nhà thơ như thế,
có thể gọi là đạt đạo. Thì là đạo làm người, vậy thôi:
“Ở những mối đường
tẽ ba tẽ bảy phân vân
Muốn xuống xe, làm
như kẻ lang thang xưa,
Tung cao may rủi một
đồng tiền hay một cành cây,
Nhờ tình cờ định hướng
hộ” (Đại Bình Nguyên)
Không ai muốn rơi
vào tâm trạng ấy để có thơ hay, nhưng khi đã lâm vào, thì chính những giọt thơ
buồn như rượu mạnh sẽ giải thoát mình khỏi mọi trầm cảm. Tôi đọc bài thơ Đại
Bình Nguyên của Tô Thùy Yên và chợt thoát ra với đúng cảm giác này của tác giả
khi kết thúc bài thơ:
“Nước Mỹ này quá rộng
và quá buồn
Anh không còn muốn
tự định liệu”
Bởi tâm trạng của
nhà thơ Việt nhập cư hôm nay không giống với tâm trạng của những người thuở xưa
đi khai phá nước Mỹ, những chàng trai miền Viễn Tây cưỡi ngựa ngang tàng trên đồng
cỏ. Rồi ngay trong lúc đó, chợt hiện về hình ảnh một kinh thành xa lắc:
“Nắng mưa đâu chẳng
là mưa nắng
Sao nắng mưa này da
diết hơn?”
Tô Thùy Yên sinh ở
Nam bộ, hai câu thơ ấy lại viết về Huế, và tôi hiểu, với một nhà thơ Việt xa xứ,
thì đất Việt đâu cũng quê nhà, đâu cũng đầy những nhớ thương day dứt. Nhà thơ
Nam bộ ấy vừa nhớ Huế, thì bỗng nhớ ngay đến vùng sông nước quê mình:
“Mùa nước nổi qua
mùa nước giựt,
Đốt tay nào Thân Dậu
niên lai?
Em về giồng dưới,
qua bưng gió,
Dạ bời bời nỗi sậy,
niềm mây…” (Nhớ có lần, trên bến bắc khuya, nghe một ông lão đàn hát)
Người ta nói thơ Tô Thùy Yên vừa dân tộc vừa hiện đại, rồi có thể phân tích thi pháp thơ anh thế này thế khác. Tôi chỉ nói đơn giản: Thơ ấy hay. Khi thơ đã hay thì có thể nó gồm cả những gì người ta đã nói, hoặc nó chỉ là… thơ hay. Vậy thôi. Sao biết là thơ hay? Khi thơ ấy đi vào lòng người, thấm sâu vào tâm cảm ta, làm ta mỗi một buồn buồn nào cũng có thể nhớ vài câu thơ ấy, thế thì nó hay rồi. Và tôi muốn nói thêm: Tô Thùy Yên có thể rất giỏi tiếng Anh, nhưng anh chỉ có thể làm thơ bằng tiếng Việt. Điều này cũng không cần phân tích. Tôi chỉ cảm về thơ Tô Thùy Yên khi “Nghe tiếng kêu chi khắc khoải lòng”. Đó có thể là tiếng kêu buồn buồn xa vọng của con bìm bịp trên miền sông nước Cửu Long. Chỉ thế thô
0 nhận xét:
Đăng nhận xét