Tiểu sử
Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 – 29 tháng 8 năm 1988) là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.
Ông sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hoà bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ và vùng quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của ông sau này.
Từ 1965 đến 1970 ông nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không-Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ.
Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,…
Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.
Em gái Lưu Quang Vũ là Lưu Khánh Thơ hiện đang công tác tại tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu Văn học của Viện Văn học. Em trai là Lưu Quang Hiệp, từng là hiệu trưởng Trường Đại học Thể dục Thể thao 1.
Lưu Quang Vũ kết hôn 2 lần, lần thứ nhất với diễn viên điện ảnh Tố Uyên năm 1969. Tố Uyên sinh năm 1948. Hai người li hôn năm 1972 vì Lưu Quang Vũ ngoại tình. Lưu Quang Vũ và Tố Uyên có một con trai tên là Lưu Minh Vũ, hiện đang là người dẫn chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam.
Lần thứ hai, ông lại tái hôn với nữ nhân tình Xuân Quỳnh (1942-1988, tên thật Nguyễn Thị Xuân Quỳnh) năm 1973. Xuân Quỳnh hơn Lưu Quang Vũ 6 tuổi, đã từng kết hôn và có một con riêng. Tháng 2 năm 1975, họ có với nhau một con trai đặt tên là Lưu Quỳnh Thơ. Lưu Quỳnh Thơ sau đó mất lúc 13 tuổi cùng với cha mẹ trong vụ tai nạn năm 1988.
Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ.
Phong cách sáng tác
Nhắc đến Lưu Quang Vũ là ta lại nhớ đến một nhà soạn kịch tài hoa trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Một tài năng trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật, trong mỗi một lĩnh vực ông đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc!
Thơ ca của Lưu Quang Vũ không chỉ giàu cảm xúc, nỗi niềm trăn trở mà còn rất bay bổng. Sự nghiệp sáng tác của ông vô cùng phong phú ở nhiều thể loại khác nhau như: Truyện ngắn, thơ, kịch,…
Những tác phẩm của Lưu Quang Vũ bắt đầu nổi lên từ những năm 80, lúc ấy đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh, vô cùng khó khăn. Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn trong lòng bạn đọc bởi tính chân thật, nhân văn. Ra đi ở tuổi đời còn trẻ và sự nghiệp đang trên đà đỉnh cao thế nhưng những tác phẩm để lại rất nhiều. 10 năm miệt mài sáng tác của ông đã cho ra gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch ấy đều được các đoàn kịch lớn dựng lại của nhiều đạo diễn nổi tiếng.
Vở kịch “Hồn trương ba da hàng thịt” là một tác phẩm nổi bật trong sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm kể về bi kịch cuộc đời của Trương Ba phải sống cuộc đời bên ngoài một nẻo, bên trong một nẻo. Tác phẩm giúp bạn đọc nhận ra được nếu muốn hạnh phúc chúng ta cần phải dung hòa được cả thể xác và tâm hồn.
Nhận định về nhà thơ Lưu Quang Vũ
Cảm hứng bi thương về đất nước, nhân dân đã cho Vũ có được những bài thơ hay lay động sâu sắc để lại giá trị lâu dài (Đất nước đàn bầu, Việt Nam ơi, Người cùng tôi, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sông Hồng, Năm 1954, Khâm Thiên, Hồ sơ mùa hạ 1972…) Mảng thơ này của Vũ biệt ra một cõi, không ai sánh được. Đó là một đỉnh cao của thơ Việt Nam thời chiến và đỉnh đó mang tên Lưu Quang Vũ lẻ loi và chất ngất. – Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên
Tác phẩm
Thơ
· Hương cây (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa), 20 bài thơ
· Mây trắng của đời tôi (1989), 30 bài thơ
· Bầy ong trong đêm sâu (1993), 40 bài thơ
· Gửi tới các anh (1998)
· Di cảo (2008), 29 bài thơ
· Những bông hoa không chết (2008), 35 bài thơ
· Nhiều bài thơ khác chưa được in thành tập.
Văn
· Mùa hè đang đến (truyện, 1983)
· Người kép đóng hổ (truyện, 1984)
· Một vùng mặt trận (truyện vừa)
Kịch
· Sống mãi tuổi 17
· Nàng Sita (1982)
· Hẹn ngày trở lại
· Nếu anh không đốt lửa
· Hồn Trương Ba da hàng thịt (1981)
· Lời thề thứ 9
· Khoảnh khắc và vô tận
· Bệnh sĩ (1988)
· Chữ cuối
· Tôi và chúng ta (1984)
· Người tốt nhà số 5
· Ngọc Hân công chúa
· Linh hồn của đá
· Ông vua hóa hổ
· Vắng mặt trong hồ sơ
· Chiếc ô công lý
· Ông không phải là bố tôi
· Điều không thể mất
· Ai là thủ phạm
· Chuyện tình bên dòng sông thu
· Tin ở hoa hồng (1986)
· Hoa cúc xanh trên đầm lầy
· Lời nói dối cuối cùng
· Nguồn sáng trong đời
· Mùa hạ cuối cùng
· Người trong cõi nhớ (1982)
· Ngọc Hân công chúa (1984)
Tiểu luận, phê bình
· Diễn viên và sân khấu (cùng viết với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh, 1979)
Thành tựu nghệ thuật
· Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu năm 2000
· Vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” được trao tặng Huy chương vàng Hội diễn sân khấu.
Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của anh được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu…. Anh còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét