Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023
TRẦN HUYỀN TRÂN
Tiểu sử
Trần Huyền Trân sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913 tại Hà Nội. Bút danh Trần Huyền Trân của ông có nguồn gốc như sau: Trong số những cô gái làm việc cho quán hát cô đầu có một cô gái cũng mang họ Trần do có mang nên bị đuổi việc. Thương cảm trước hoàn cảnh éo le của cô gái ông đã đứng ra cưu mang, lo cho cô sinh nở và khi cô sinh con gái ông đã đặt tên là Trần Huyền Trân (ý nói hai người họ Trần vì "Trân" thêm dấu huyền thành "Trần"). Sau đó ông dùng bút danh là Trần Huyền Trân.
Ông tham gia phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Việt Minh, làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám, lên Việt Bắc chống Pháp. Sau 1954, Trần Huyền Trân chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Cùng với một số người bạn như Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm... các ông đã bỏ tiền túi ra thành lập nhóm chèo Cổ Phong để có nơi bảo lưu những giá trị nghệ thuật của dân tộc và đào tạo nghề cho các lớp diễn viên. Ông là người đã dày công sưu tầm, chỉnh lý những tích chèo cổ, những trích đoạn đã trở thành mẫu mực của nghệ thuật chèo (như Vân Dại, Quan Âm Thị Kính...). Ông mất ngày 22 tháng 4 năm 1989 tại Hà Nội. Trần Huyền Trân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Hoài Thanh đã viết rằng: ông đọc Trần Huyền Trân và "Đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió". Ông để lại nhiều bài thơ nổi tiếng: Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà... và sau này là Mưa đêm lều vó,...
Tác phẩm chính : Trần Huyền Trân sáng tác cả thơ, truyện. Ông có mặt ngay từ buổi đầu ra đời của phong trào Thơ mới và đăng thơ tên nhiều tờ báo đương thời. Bên cạnh thơ, ông có hai truyện dài dựa theo cốt truyện cổ Trung Quốc : Tớ lòng người kỹ nữ, Người ngàn thu cũ, 2 tập truyện ngắn Chim trong lông, Lẽ sống và cuốn tiểu thuyết Sau ánh sáng (xuất bản 194l). Sau 1945, ông đã sáng tác những vở kịch thơ như Lén đường, Hoàng Văn Thụ, kịch bản chèo Tú Uyên – Giáng Kiều, Có Thúy và tham gia chính lý, cải biên nhiều vở chèo cổ. Bên cạnh sáng tác, ông còn làm công việc chỉ đạo nghệ thuật, dàn dựng và biểu diễn.
Trần Huyền Trân được chú ý đến bởi thơ nhiều hơn dù ông có viết nhiều truyện dài, truyện ngắn. Tiếng thơ Trần Huyền Trân hiền lành, đượm buồn và nhiều khi ngậm ngùi chua chát. Nó mang tâm sự u uất của một con người sớm gặp phải những vất vả, éo le, sớm phải đương đầu với cuộc đời bất công, ô trọc. Trong bất bình, ngậm ngùi đau thương, điều đáng quý là con người ấy vẫn muốn hướng tới hành động tích cực, vẫn nuôi khát vọng lên đường vì nghĩa lớn. Trần Huyền Trân có những vần thơ tha thiết khi nói đến đất nước lầm than, khi bộc lộ nguyện ước kín đáo về cách mạng (bài Độc hành cơ). Ông tỏ ra giàu xúc cảm khi viết về cuộc đời héo lụi và cái chết trong nghèo khổ của thi sĩ tài danh Tản Đà (Khu đã về chiêu, Khóc Tản Đà), khi nói về tình cảm mẫu tử (Lòng chiến sĩ). Giọng điệu thơ ngậm ngùi nhè nhẹ pha chút ngang tàng của Trần Huyền Trân về sau được thể hiện khá rõ trong Hải Phòng 19.11. 1946 – bài thơ dài phản ánh không khí Hải Phòng những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây cũng là tác phẩm thơ tiêu biểu của ông.
Tác phẩm
Sau ánh sáng (1940)
Bóng người trên gác binh (1940)
Tấm lòng người kỹ nữ (truyện-1941)
Người ngàn thu cũ (truyện-1942)
Phá xiềng
19-8 (kịch)
Rau tần (1986)
Chim lồng (truyện)
Lẽ sống (truyện)
Lên đường
Tú Uyên (kịch)
Giáng Kiều (kịch)
Nhà lưu niệm và tuyển văn Trần Huyền Trân
Sinh thời, Trần Huyền Trân rất có ý thức giữ gìn bản thảo nhưng do hoàn cảnh khó khăn bấy giờ, không có tủ đựng tài liệu, nên khi ông mất, bà Hạc Đính cùng con trai đã phải thu thập toàn bộ bản thảo trong thơ ca, sân khấu của Trần Huyền Trần, phân loại rồi cất vào vali. Đó là một công việc tốn thời gian, công sức. Để làm tuyển thơ cho thi sĩ, anh Trần Kim Bằng, con trai thi sĩ, đã mất ba năm miệt mài, bởi mỗi một tác phẩm của Trần Huyền Trân thường có nhiều phiên bản. Thí dụ: Bài “Mười năm” có đến ba bản thảo, “Mưa đêm lều vó” cũng vậy, thậm chí bản “Mưa đêm lều vó” đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy khác nhiều với bản chép tay để lại. Ngay cả kịch bản, Trần Huyền Trân cũng để lại nhiều phiên bản chép tay, các vở Vân Dại, Quan Âm Thị Kính để lại tới 4 phiên bản. “Chữ cha tôi khó đọc với nhiều người, nhưng tôi đoán ra được”, anh Trần Kim Bằng cho biết.
Hiện nay gia đình Trần Huyền Trân đang tiến hành cải tạo nhà cửa, dự định để riêng tầng 1 với diện tích gần 60m2 làm nhà lưu niệm Trần Huyền Trân, mở cửa tự do. Anh Trần Kim Bằng cũng đã sưu tầm được 60 đầu sách và đang tiến hành xuất bản tuyển văn cho cha.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét