Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

NGUYỄN BÍNH

Tiểu sử

· Nguyễn Bính sinh ngày 13 tháng 2 năm 1918, tức mồng 3 tết, tên thật là Nguyễn Trọng Bính, ở làng Trám, làng Thiện Vinh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản. Tỉnh Nam Định.

· Cha của Nguyễn Bính tên là Nguyễn Đạo Bình làm nghề giáo, mẹ là Bùi Thị Miện con gái một gia đình giàu có. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.

· Cô Miện bị rắn độc cắn chết năm 1918, khi mới 24 tuổi. Bà để lại cho Bính ba đứa con thơ, lúc đó Nguyễn Mạnh Phác sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thu ba tuổi và Nguyễn Bính mới ba tháng.Đúng như câu ca dao của ông:

Còn tôi sống sót là may

Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ

· Mấy năm sau, ông Bình lấy bà Duyên làm mẹ kế (bà sinh được bốn người con, hai trai, hai gái). Bà Giản là cô ruột của mẹ Nguyễn Bính. Gia đình giàu có nên bà và ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính, cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn. Nguyễn Bính làm thơ từ nhỏ, được thầy Khiêm khen nên mê.

· Năm 13 tuổi, Nguyễn Bính đoạt giải nhất trong cuộc thi Tiếng trống quân mùa xuân ở Hội làng với sáng tác:

...Anh đố em này:

Làng ta chưa vợ mấy người ?

Chưa chồng mấy ả, em thời biết không

Đố ai đi khắp tây đông,

Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?

Làm sao như rượu mới say,

Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ?

Làm sao như vợ như chồng ?

Làm sao cho thỏa má hồng răng đen

Làm sao cho tỏ hơi đèn ?

Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?

Làm sao ? anh khen em tài ?

Làm sao ? em đáp một lời làm sao... ?

· Trúc Đường đậu (Diplome d'Étude Primaire Supérieus Franco-Indigène) hạng xuất sắc ở Hà Nội, được nhận làm giáo viên tại một trường tư ở Hà Đông, bắt đầu viết văn và làm thơ. Nguyễn Bính ở với ông và Trúc Đường dạy ông văn học Pháp. Từ đó, Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả trong văn lẫn ngoài đời.

· Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo một người bạn, học ở thôn Vân lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học, có lẽ những vần thơ như:

Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh

Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm

Da trời ai nhuộm mà lam

Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai

Là được Nguyễn Bính viết trong thời gian này.

· Bài thơ Cô chọn một giấc mơ đã được đăng lần đầu trên báo. Năm 1937, Bài thơ Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính gửi dự thi sau khi đoạt giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Nghệ sĩ Nguyệt Hồ nhớ lại: Tôi biết Nguyễn Bính từ khi anh chưa nổi tiếng, ngày nào tôi cũng ôm tập thơ làm quen với các tòa soạn báo. Tôi thích thơ anh và giới thiệu anh với Lê Tràng Kiều, tổng biên tập tiểu thuyết thứ năm, người đã xuất bản Cô hái mơ, bài thơ đầu tiên của anh đăng trên báo năm . Tôi khuyên anh gửi thơ và anh được giải Tự Lực Văn Đoàn.. Chúng tôi thân nhau từ khoảng 1936 đến 1940, đoạn đầu đời ông,… Từ 1940 Nguyễn Bính nổi tiếng với một loạt thơ khá dày về nhiều đề tài, phần lớn là thơ tình. Cùng năm, Trúc Đường ra Hà Nội viết truyện dài Người đẹp, Nguyễn Bính tỏ ý muốn vào Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Dương đồng ý nhưng không có tiền, đưa máy ảnh cho Nguyên Bình rồi về quê bán chiếc thềm đá xanh (báu vật duy nhất trong gia đình) lấy hết tiền cho Nguyên Bình.

· Vào Huế Nguyễn Bính. Gửi thơ cho Trúc Đường đọc trước rồi đăng. Cuối năm 1941 đầu năm 1942 Trúc Đường được nhận nhiều bài thơ của Nguyễn Bính, trong đó có: “Mùa xuân lưu vong” và “Ngày tận thế” Nguyễn Bính về Hà Nội rồi lại vào Sài Gòn.

· Đoạn tuyệt với Trúc Đường lần cuối cùng là năm 1943, đến năm 1945 thì bạt tin dần. Năm 1946, liên lạc bị cắt đứt hoàn toàn.Trong thời gian này, Nguyễn Bính gặp nhà thơ Đông Hồ Kiên Giang. Một thời anh ở nhà Kiên Giang. Lúc đó ông đã viết các bài Hạnh Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Làm Đến Đây,...

· Cùng lúc đó Nguyễn Văn Thịnh (Thủ hiến Nam Kỳ Tự Trị) treo giải thưởng: Ai đưa nhà thơ Nguyễn Bính “dinh ta” (vào kinh thành) thuộc phủ (“Nam Kỳ Tự Trị”)). thưởng 1.000 đồng Đông Dương! Nếu nhà thơ tự mình vào thành phố cũng mừng (1.000 đồng Đông Dương lúc đó là gia sản). “. được mời. Lúc đó anh lang thang khắp Rạch Giá, ban ngày ở nhờ nhà bạn, tối ngủ ở nhà, chỉ có một cái bao sậy để trốn muỗi, nên nhiều người cho rằng anh đã vào thành phố cùng với quan phủ. Tuy nhiên, trong một bài thơ của mình, ông đã viết hai câu khẳng định:

... Mình không bỏ Sở sang Tề

Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi.

· Nhiều người dân Nam Bộ lúc bấy giờ đều biết rằng việc cầu khẩn Nguyễn Bính là tinh thần của một chí sĩ yêu nước.

· Năm 1947 Nguyễn Bính theo Việt Minh, Bảo Định Giang kể tiếp: Tôi không biết là vào năm 1947, nhưng đầu năm 1948, lúc 3 giờ chiều, cô gái ấy đến nơi mình làm rồi hỏi: "Có một đồng chí tên là Nguyễn Bính đến đây tìm anh". .. Thực ra Nguyễn Bính gia nhập lực lượng Việt Minh lúc 3 giờ chiều ngày ấy do cấp trên chỉ đạo là đồng chí Trần Văn Trà và với đồng chí. Nguyễn Văn Vinh đã nhận lời. ngày hôm sau.Không những ông đồng ý mà các đồng chí còn căn dặn: “Hãy đối xử tử tế và chăm sóc tác giả thật tốt.”

· Theo hồi tưởng của Tô Hoài thì Không rõ ai đã dạy Nguyễn Bính hiểu được các chữ số. Phóng viên báo Trăm Hoa đầu tiên, sau là "Bề trên" đã tự ý mang giấy cùng tiền mặt của nhà xuất bản Văn Nghệ đưa lại Trăm Hoa, còn cá nhân Tô Hoài được trao trách nhiệm "kêu gọi một bài báo khác, tuy nhiên ông Hoài đã từ chối. một tiếng nói, vì sự can thiệp này, "Báo Trăm đã có một diện mạo khác. Đừng quay lại với nhân văn, mà quay lại với ai." .Nguyễn Bính nói với Hoài: Đây là trăm hoa là báo của Nguyễn Bính. Nếu không, đó là nó! Sáng kiến ​​“đầu tư” Trăm hoa kết thúc ở . Một buổi tối, Nguyễn mời Bình Tô Hoài ăn tối ở nhà hàng Lục Quốc.Nguyễn Bính nói: Hôm nay ăn đám ma trăm hoa!

Những năm tháng ở Nam Định

· Nguyễn Bính tự truyện trong Tuyển tập Nguyễn Bính 1986

· Chu Văn viết về Nguyễn Bính như sau, trong lời bạt của Tuyển tập Nguyễn Bính: Nguyễn Bính về Nam Hà, tuổi gần năm mươi, gầy, đen, tóc cắt ngắn, gần như hói . Bác ăn mặc giản dị: áo sơ mi nâu, quần kaki bạc màu, chân đi dép cao su. Toàn bộ hình thức trước đây không gợi lên biểu cảm của một nhà thơ lớn, sau được gọi là “nhà thơ trước chiến tranh”. Anh ta cười với đôi mắt nâu, chiếc sắc lẹm, hơi run và nụ cười gượng gạo, hàm răng ố vàng vì khói thuốc lào.

Các tác phẩm

· 30 năm qua Nguyễn Bính sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện ngắn thơ... Ông sáng tác rất hay, viết rất đều và sống hết mình với sự nghiệp thơ ca. Ông được nhiều người đọc và được coi là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Một số tác phẩm:

· Qua nhà (Yêu đương 1936)

· Những bóng người trên sân ga (Thơ 1937)

· Cô hái mơ (Thơ 2007)

· Tương tư

· Chân quê (Thơ 1940)

· Lỡ bước sang ngang (Thơ 1940), 34 bài

· Tâm hồn tôi (Thơ 1940), 23 bài

· Hương cố nhân (Thơ 1941)

· Hồn trinh nữ (Thơ 1958)


0 nhận xét:

Đăng nhận xét