Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023
HOÀNG CẦM
Tiểu sử
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, (22 tháng 2 năm 1922 – 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội), là một nhà thơ Việt Nam. Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, nay là thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc của Hoàng Cầm ở phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.
Năm 1944, do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.
Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952,
ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.
Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án "Nhân văn Giai phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu năm 1970 lúc 48 tuổi.
Năm 1982 ông bị bắt giam vào Hỏa lò vì tập thơ Về Kinh Bắc sáng tác năm 1959 - 1960,đến năm 1983 được tha về mà không có phiên tòa nào xử tội chống Đảng của ông.Hậu quả của việc này là ông mắc bệnh trầm cảm.
Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.
Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.
Thời gian cuối đời ông sống tại Hà Nội và ông đã mất vào ngày 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội vì bệnh nặng.
Phong cách sáng tác
Như đã nói, Hoàng Cầm mang trong mình một hồn thơ Kinh Bắc đau đáu, khôn nguôi. Hoàng Cầm là ông hoàng của thơ trữ tình duy mỹ và những sáng tác thơ của ông trong hơn nửa thế kỷ qua đã nói lên điều ấy. Thơ trữ tình của Hoàng Cầm có một phong thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cả một vùng Kinh Bắc - cái nôi của nền văn hoá sông Hồng. Tài năng ông là ở chỗ tìm tòi đổi mới thơ mà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển, nâng cao tư duy thơ mà giọng điệu vẫn không xa lạ với mọi người. Có ý kiến cho rằng, trong thơ Hoàng Cầm thấp thoáng có những nét chạm khắc tinh hoa của kiến trúc đình-chùa vùng Kinh Bắc, nó mang hơi thở và dấu ấn sáng tạo tuyệt kỹ của những nghệ nhân dân gian. Cái đẹp, cái hay trọn vẹn trong trầm tích mang tên Kinh Bắc đã đằm rất sâu vào hồn thơ của Hoàng Cầm.
Hoàng Cầm là nhà thơ nổi tiếng, những giá trị của tác phẩm mà ông đã viết mất một khoảng thời gian khá dài mới lấy lại được vị trí vốn có của nó. Dẫu có thể có nhiều tranh cãi trong quá khứ, nhưng không ai có thể phủ nhận tài năng của ông.
Tác phẩm
Nhà thơ có khá nhiều các tác phẩm, chủ yêu thuộc thể loại thơ, cũng có một vài tác phẩm thể loại khác tuy nhiên không nổi bật. tác phẩm được độc giả biết đến nhiều nhất chính là “lá diêu bông”, viết về mối tình không thành của chính nhà thơ
dành cho người chị hơn tuổi của mình. Lá diêu bông không có thật, tuy nhiên vì cái hay của nó, cho đến bây giờ lá diêu bông vẫn được coi là biểu tượng của tình yêu chung thủy và vĩnh hằng. Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đánh giá: “Thơ Hoàng Cầm rất nhiều bài hay. Nhưng bài tôi tâm đắc nhất là bài “Lá diêu bông”. Vì ở đấy nó có phẩm chất mà tất cả các nhà thơ của nhân loại đều phải có. Vì riêng chuyện ông sáng tạo ra lá diêu bông đã là một câu chuyện. Hàn Mạc Tử cũng sáng tạo ra cõi phượng trì… rất mông lung thì đến Hoàng Cầm ông lại nghĩ ra là Lá diêu bông. Bài thơ thể hiện tâm trạng đau đớn và khắc khoải của chính nhà thơ khi tình yêu không thành.
Ngoài ra, bài thơ “bên kia sông Đuống” cũng là tác phẩm rất hay của nhà thơ Hoàng Cầm, thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật của nhà thơ, một hồn thơ đậm chất Kinh Bắc, giản dị, thân thuộc. Một tình yêu với quê hương sâu sắc.
Bên cạnh đó, ta có thể liệt kê một số tác phẩm chính khác sau đây:
· Hận ngày xanh (phóng tác theo La martine 1940);
· Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen, 1940);
· Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941);
· Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942);
· Thoi mộng (truyện vừa, 1941);
· Mắt thiên thu (tập thơ, mất bản thảo, 1941);
· Hai lần chết (truyện ngắn, 1941);
· Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944);
· Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);
· Kiều Loan (kịch thơ, 1945);
0 nhận xét:
Đăng nhận xét