Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023
THANH TÂM TUYỀN
Tiểu sử
Thanh Tâm Tuyền (1936-2006), tên thật là Dzư Văn Tâm, là một nhà thơ, nhà văn người Việt nổi tiếng, được biết đến với những cách tân thơ ca táo bạo. Năm 1956, lúc tròn 20 tuổi, ông đã nổi tiếng với tập thơ Tôi không còn cô độc, và năm 1957, lúc 21 tuổi, với tiểu thuyết Bếp lửa (viết năm 1954) "mô tả khung cảnh Hà Nội trước 1954, với những người ra đi cũng như những người ở lại, cả hai đều bị giằng co bởi những chọn lựa miễn cưỡng, sự chia ly hay cái chết." Thanh Tâm Tuyền có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam giai đoạn 1956-1975 và cả những năm về sau này. Bút hiệu khác: Đỗ Thạch Liên.
Thanh Tâm Tuyền sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh, tên thật là Dzư Văn Tâm.
· Năm 1952 (16 tuổi), ông dạy học tại trường Minh Tân (Hà Đông) và đăng những truyện ngắn đầu tiên trên tuần báo Thanh Niên (Hà Nội).
· Năm 1954, ông hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
· Năm 1955, ông vào Sài Gòn, cùng các bạn làm làm tờ Dân Chủ mà Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp phụ trách phần văn nghệ. Mai Thảo gửi đến đoản văn "Đêm giã từ Hà Nội". Thanh Tâm Tuyền "kinh ngạc", mời tác giả đến toà soạn. Từ đó, "nhóm"' có thêm Mai Thảo, chủ trương tuần báo Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo), với sự cộng tác của Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
· Tháng 10 năm 1956, Sáng Tạo ra đời. Từ 1956 đến 1960, Mai Thảo làm chủ bút. Năm 1956, hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền cho in cuốn sách đầu tay Tôi không còn cô độc (thơ), và năm sau Bếp lửa (văn, 1957), hai tác phẩm đánh dấu sự thay đổi diên mạo văn học miền Nam, đến thời đó vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lãng mạn tiền chiến.
· Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, 1966, giải ngũ, 1969, tái ngũ, ở trong quân đội đến 1975; cấp bực cuối cùng là đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
· Sau 1975, bị đi tù cải tạo 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc. Thanh Tâm Tuyền ra tù 1982. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1990 theo diện HO, sống ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ, giữ thái độ gần như ẩn dật.
· Thanh Tâm Tuyền mất hồi 11 giờ 30 ngày 22 tháng 03 năm 2006, khi mới bước vào tuổi 70.Một số thơ của ông đã được Phạm Đình Chương và Cung Tiến phổ thành những nhạc phẩm rất nổi tiếng như: Bài ngợi ca tình yêu, Dạ tâm khúc, Đêm màu hồng, Lệ đá xanh, Nửa hồn thương đau.
Cuộc đời
Thuở nhỏ ông theo mẹ vào Sài Gòn ở nhà người cô làm nghề đan áo len, ông phụ với cô đi giao áo, nhận len và tiền; sau đó ra Hà Nội tiếp tục đi học. Ông là một học sinh xuất sắc, chưa đủ tuổi thi Tú Tài 1, phải xin miễn tuổi và đỗ ban Toán kỳ thi này.
Năm 16 tuổi (1952) ông đã dạy học ở trường Minh Tân (Hà Đông), đăng truyện ngắn trên tạp chí Thanh Niên, Hà Nội. Năm 17 tuổi, truyện ngắn Viên Đạn Cuối Cùng của ông đã đoạt giải nhất trong cuộc thi do báo Thần Chung tổ chức.
Năm 1954 ông lại di cư vào Nam, cùng các bạn chủ trương tạp chí Lửa Việt, hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên. Ở tuổi hai mươi, với chỉ hai tác phẩm đầu tay: Tôi không còn cô độc (thơ) và Bếp lửa (văn), ông đã chứng tỏ tài năng độc đáo và gây được tiếng vang lớn: khởi xướng và tạo tranh luận sôi nổi về thơ tự do, góp phần với nhóm Sáng Tạo (ông tham gia từ 1956 – 1960) thổi một luồng gió mới trong sinh hoạt văn học miền Nam. Nhắc đến văn học miền Nam thời điểm 1954 – 1975, không thể thiếu phần đóng góp của ông.
Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, học trường Bộ binh Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ tại các đơn vị: Trường Võ bị Đà Lạt, báo Tiền Tuyến của Quân Lực VNCH, tập san Quốc Phòng của trường Cao Đẳng Quốc Phòng. Năm 1966, giải ngũ; năm 1669, tái ngũ, ở trong quân đội cho đến 1975 với cấp bậc cuối cùng: Đại úy. Sau năm 1975, ông bị tù hơn bảy năm trong những trại giam ở miền Bắc.
Tháng 4 năm 1990, ông sang Mỹ, lúc đầu ở tiểu bang Louisiana, sau định cư ở Roseville, tiểu bang Minnesota; do người bạn thân là nhạc sĩ Cung Tiến và hội Văn Hóa Việt Nam bảo trợ. Ông theo học Điện toán và làm việc tại St. Paul Technical College đến khi về hưu năm 2001. Thời gian ở Mỹ ông sống như người ẩn dật, viết rất ít, chỉ khi nào thật sự cần thiết mới viết, như dịp tưởng niệm các bạn ông: Mai Thảo, Ngọc Dũng, tuyên dương Doãn Quốc Sỹ…
Ông mắc bệnh ung thư phổi và từ trần lúc 11 giờ 30 ngày 22 tháng 3 năm 2006 tại Saint Paul, Minnesota, là nơi gia đình ông cư ngụ trên mười sáu năm. Sáu người bạn: Cung Tiến, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Ngọc Diễm và Vũ Xuân Châu đã khiêng linh cữu nhà thơ đến nơi an nghỉ cuối cùng: nghĩa trang Roselawn, đường Larpenteur, Roseville.
Tác phẩm
Thơ
· Tôi không còn cô độc (Người Việt, Sài Gòn, 1956), 30 bài thơ
· Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy (Sáng Tạo, 1964), 25 bài thơ
· Thơ ở đâu xa (Trầm Khắc Phục xuất bản, California, 1990)
Tiểu thuyết
· Bếp lửa (Nhà xuất bản. Nguyễn Đình Vượng, 1957)
· Cát lầy (Giao Điểm, 1967)
· Mù khơi (1970)
· Tiếng động (1970)
· Một chủ nhật khác (Văn, 1975)
· Ung thư (đăng nhiêu kỳ trên báo Văn, chưa xuất bản)
· Truyện ngắn
· Khuôn mặt (Sáng Tạo, 1964)
· Dọc đường (Tân Văn, 1966)
Kịch
· Ba chị em (1967)
· Phiếm luận
· Tạp ghi (1970)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét