Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023

BÙI GIÁNG


Tiểu Sử

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,là nhà thơ dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng... Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con đầu của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền, nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.

· Năm 1933, ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.

· Năm 1936, ông học trường Bảo An (Điện Bàn) với thầy Lê Trí Viễn.

· Năm 1939, ông ra Huế học tư tại Trường trung học Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có Cao Xuân Huy, Hoài Thanh, Đào Duy Anh.

· Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.

· Năm 1949, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh.

· Năm 1950, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung Phước.

· Năm 1952, ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thì sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.

· Năm 1965, nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.

· Năm 1969, ông "bắt đầu điên rực rỡ" (chữ của Bùi Giáng). Sau đó, ông "lang thang du hành Lục tỉnh" (chữ của Bùi Giáng), trong đó có Long Xuyên, Châu Đốc.

· Năm 1971, ông trở lại sống ở Sài Gòn. Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998, sau một cơn tai biến mạch máu tại bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh, tức Sài Gòn cũ) sau những năm tháng sống "điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang" (chữ của Bùi Giáng). Ông được chôn cất tại nghĩa trang Gò Dưa, quận Thủ Đức.

Có thể nói Bùi Giáng là một trong những trường hợp đặc biệt của văn đàn Việt Nam. Thơ ông vẫn còn gây tranh cãi là Thơ Tiên hay Thơ Điên nhưng không phải không có lý do mà trên vòm trời văn hoá văn nghệ miền Nam trước đây, người ta coi Bùi Giáng như một "ngôi sao", bởi không chỉ là một nhà thơ, ông còn là một nhà nghiên

cứu văn học và là một dịch giả xuất sắc.Ông thông thạo các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hán văn, và tự học tiếng Đức 6 tháng, đọc và dịch sách của triết gia Martin Heidegger. Về việc dịch này phải công nhận ông là một thiên tài bởi những ai sống lâu năm ở Đức chưa chắc dịch được tác phẩm lưu loát như Bùi Giáng. Ông còn dịch nhiều sách Pháp, Anh, Hán văn như Hamlet của Shakespeare, Hoàng tử bé của Saint Exupéry, Ngộ nhận của Albert Camus, Khung cửa hẹp, và Hoà âm điền dã của André Gide, Kim kiếm điêu linh của Ngọa Long Sinh...

Ngoài ra, ông đã biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như Tư tưởng hiện đại, Thi ca tư tưởng, Lễ hội tháng ba, Con đường ngã ba, Con đường phản kháng, Đi vào cõi thơ...

Những tác phẩm tiêu biểu của Bùi Giáng

· Mưa nguồn (1962)

· Lá hoa cồn (1963)

· Màu hoa trên ngàn (1963)

· Ngàn thu rớt hột (1963)

· Bài ca quần đảo (1963)

· Sa mạc trường ca (1963)

· Sa mạc phát tiết (1969)

· Mùi Hương Xuân Sắc (1987)

· Rong rêu (1995)

· Đêm ngắm trăng (1997)

· Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994)

· Thơ Bùi Giáng (California, 1994)…

· Mười hai con mắt (2001)

· Thơ vô tận vui (2005)

· Mùa màng tháng tư (2007)

· Trăng châu thổ

· Mùa xuân trong thi ca.

· Thúy Vân

· Ngày tháng ngao du

· Đường đi trong rừng

· Lời cố quận

· Lễ hội tháng Ba

· Con đường ngã ba-Bước đi của tư tưởng

Giảng luận

· Giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.

· Giảng luận về Chu Mạnh Trinh

· Giảng luận về Tôn Thọ Tường

· Giảng luận về Phan Văn Trị

· Tất cả đều được xuất bản năm 1957 – 1959.

Triết học

· Tư tưởng hiện đại (1962)

· Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại I và II (1963)

· Sao gọi là không có triết học Heidegger? (1963)

· Dialoque (viết chung, 1965)

Thời còn trẻ khi chưa nổi tiếng

Thuở nhỏ, Bùi Giáng đi học ở trường làng Thanh Châu. Sau đó, ông học trường Bảo An (Điện Bàn) với thầy Lê Trí Viễn.

-Đến năm 1939, Bùi Giáng học tư tại Trường trung học Thuận Hóa tại Huế, thi đỗ bằng Thành chung năm 1945.Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Bùi Giáng tham gia kháng chiến với vai trò là một bộ đội công binh.

-Năm 1950, Bùi Giáng thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức và được cử đi học ở Hà Tĩnh.

-Năm 1952, ông thi đỗ tú tài 2 ban Văn chương, sau đó vào Đại học Văn khoa.

-Năm 1950, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học.

-Thời trẻ, nhà thơ Bùi Giáng yêu đơn phương nữ nghệ sĩ nhân dân Kim Cương

Bùi Giáng có tình cảm với NSND Kim Cương khi bà mới 19 tuổi. Ông tỏ tình với bà nhưng không thành vì bà thấy ông có vẻ bất bình thường. Sau đó, Bùi Giáng vẫn giữ tình cảm với bà trong suốt cuộc đời ông. Cả đời Bùi Giáng chỉ nhớ mỗi số điện thoại nhà của Kim Cương, khi ông làm náo loạn trật tự, bị công an "hỏi thăm" cũng chỉ biết đọc lên số điện thoại này; lúc bị ngã xe vào cấp cứu bệnh viên, tỉnh lại cũng mang số điện thoại ra để trả lời bác sĩ.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét