Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2023

TRẦN HUYỀN TRÂN


Tiểu sử

Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu tại Việt Nam. Ông được sinh ra tại Hà Nội vào ngày 13 tháng 9 năm 1913. Bút danh Trần Huyền Trân của ông xuất phát từ một câu chuyện: Trong số những cô gái làm việc cho quán hát cô đầu có một cô gái cũng mang họ Trần và bị đuổi việc khi phát hiện cô đang mang thai. Tình người của ông đã giúp cô này vượt qua khó khăn trong thời gian mang thai và khi cô sinh ra một bé gái, ông đã đặt tên cho bé là Trần Huyền Trân (có nghĩa là hai người họ Trần). Từ đó, ông sử dụng bút danh Trần Huyền Trân.

Sau khi tham gia phong trào Thơ mới, Trần Huyền Trân tham gia Việt Minh và làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám trước khi đi lên Việt Bắc để chống Pháp. Sau 1954, ông chuyển sang hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sân khấu và cùng với nhóm bạn của mình, bao gồm Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm, thành lập nhóm chèo Cổ Phong để bảo lưu giá trị nghệ thuật dân tộc và đào tạo nghề cho các diễn viên. Ông cũng là người đã sưu tầm và chỉnh lý những tích chèo cổ, trích đoạn đã trở thành mẫu mực của nghệ thuật chèo, chẳng hạn như Vân Dại, Quan Âm Thị Kính... Trần Huyền Trân qua đời ngày 22 tháng 4 năm 1989 tại Hà Nội và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Các tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, và sau đó là Mưa đêm lều vó,... Theo Hoài Thanh, khi đọc tác phẩm của Trần Huyền Trân, ông đã tìm thấy "cái thú của người đi đổi gió".

Thời trẻ/ khi chưa nổi tiếng

Sau Cách mạng tháng Tám, Trần Huyền Trân gia nhập Việt Minh và tham gia đoàn kịch Tháng Tám trước khi đến Việt Bắc để tham gia phong trào chống Pháp. Sau năm 1954, ông tập trung hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sân khấu. Cùng với nhóm bạn bao gồm Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm..., ông thành lập nhóm chèo Cổ Phong nhằm bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống của dân tộc, cũng như đào tạo nghề cho các diễn viên trẻ. Trần Huyền Trân đã sử dụng nỗ lực của mình để sưu tầm và chỉnh lý những tác phẩm chèo cổ, trích đoạn nào đã trở thành mẫu mực cho nghệ thuật chèo, như Vân Dại, Quan Âm Thị Kính,...

Sau cách mạng tháng 8

Trần Huyền Trân, tên thật là Trần Đình Kim, sinh ngày 13/9/1913 và mất ngày 22/4/1989. Ông tham gia phong trào Thơ mới cùng với các nhà thơ khác. Sau khi Cách mạng tháng Tám diễn ra, ông gia nhập Việt Minh và làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám. Sau năm 1954, ông tập trung hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Vào năm 2007, ông được vinh danh với Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.


1. Khi viết tới những trang cuối Thi nhân Việt Nam, dường như Hoài Thanh - Hoài Chân đã mệt mỏi sau khi đã nghiên cứu giới thiệu đến 45 nhà thơ mới một cách thấu đáo. Như một doanh gia sau thời gian tất bật với thị trường, đang muốn khoá sổ để kiểm lại doanh số, thì vị khách cuối cùng Trần Huyền Trân bỗng xuất hiện. Cái vẻ khác người của ông làm chủ nhà phải hoãn công việc để tiếp thêm vị khách mới, nhưng cũng là thù tiếp qua loa…

Tôi nhận ra điều ấy, khi hai ông nhận xét: “…Trần Huyền Trân không phải là một thiên tài. Nhưng tôi ưa những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương.” Và ở cuối bài, ông thêm: “…Tôi đã tìm thấy cái thú của người đi đổi gió”, kèm theo một số câu thơ trích cho kín hai trang, và không dẫn ra một bài thơ nào trọn vẹn. Tôi e nhận xét của Hoài Thanh, Hoài Chân quá vội, khác với ấn tượng khá rõ nét của tôi và có lẽ cũng của nhiều người khác về thơ Trần Huyền Trân.

Nhưng, ta cũng nên khách quan mà thể tình cho hai tác giả, khi hai ông mới chỉ chạm mặt thơ Trần Huyền Trân qua những bài thơ lẻ in trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san… chưa in thành tập, vào năm khép lại cuốn Thi nhân Việt Nam, 1941, khi nhà thơ họ Trần mới 28 tuổi. Còn tập Thơ Trần Huyền Trân tuyển tập (NXB Văn học, 2001) tôi đang cầm trên tay là thơ tuyển của cả cuộc đời ông. Tuyển tập xếp bài trước sau theo đúng thứ tự ngày ra đời của chúng, gồm 99 bài. Vậy là hai ông Hoài Thanh, Hoài Chân chỉ có thể đọc của Trần Huyền Trân những bài từ năm 1940 trở về trước

2. Trần Huyền Trân xuất thân từ tầng lớp dân nghèo thành thị, cha mất sớm năm ông mới 13 tuổi, ông phải bỏ học để kiếm kế mưu sinh, ông từng làm thợ nguội, thợ chiếu phim, dạy học tư, làm báo, viết văn, lập đoàn kịch…

Ông gắn bó nhiều với tầng lớp dưới đáy của xã hội. Ngay xuất xứ bút danh của ông đã chứng minh điều ấy: Ông cưu mang một cô gái nhà nghèo cũng họ Trần, phải lấy lẽ một kẻ giàu. Nhưng khi cô có mang, hắn đuổi cô ra khỏi nhà! Trước khi mang bút danh Trần Huyền Trân, ông lấy bút danh Đỗ Quyên hoặc Trần Kim, rút gọn cái tên khai sinh Trần Đình Kim. Đến khi ông gặp gỡ, thương cảm hoàn cảnh cô gái, nhận khai sinh cho đứa “con hoang” như con của mình, ông mới lấy bút danh Trần Huyền Trân, một dấu huyền đã gắn bó hai số phận cùng khổ họ Trần!

Tác phẩm tiểu biểu của nhà thơ Trần Huyền Trân

· Lên đường

· 19-8 (kịch)

· Bóng người trên gác binh (1940)

· Người ngàn thu cũ (1942)

· Phá xiềng

· Rau tần (1986)

· Chim lồng (truyện)

· Lẽ sống (truyện)

· Tiếng hát bên nôi

· Sau ánh sáng (1940)

· Tấm lòng người kỹ nữ (1941)

· Sơn Tinh – Thuỷ Tinh

· Tú Uyên Giáng Kiều (kịch)

· Đêm trong tù

· Hoàng Văn Thụ

· Lam Sơn tụ nghĩa

· Tạ Thị Kiều

· Lửa Hà Nội

Thành tựu nghệ thuật

Năm 2007, Nhà thơ Trần Huyền Trân đã được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét