Tiểu sử
Huy Cận sinh ngày 31-5-1919 trong một gia đình nông dân nghèo Nho học ở chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) thuộc làng An Phú, huyện Hương Sơn, sau thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã An Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ngày sinh hiện nay do chú khai khi nhập học ở Huế, trong khi ngày sinh thật của chú là ngày 29-12-1917 (tức ngày 22-01-1917 dương lịch).
Khi còn trẻ, ông học ở quê nhà và sau đó học trung học ở Huế, nơi ông rất giỏi tiếng Pháp. Sau đó anh ra Hà Nội học Cao đẳng Nông nghiệp. Trong thời gian học đại học, ông ở với Xuân Diệu trên phố Hàng Than. Năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên giải phóng dân tộc và Mặt trận Việt Minh. Ông tham gia Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (8/1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời). Huy Cận cũng hoạt động với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Phong cách sáng tác của nhà thơ Huy Cận
Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đặc biệt và có một điểm chung là hàm súc, triết lý. Ông là một đại biểu xuất sắc cho phong trào thơ mới với hồn thơ ảo não. Huy Cận là một người yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp.
Trước Cách mạng tháng 8, tác phẩm của Huy Cận mang tông màu sầu đau, buồn bã. Sau đó, chúng trở nên vui tươi hơn. Điều này cho thấy rằng các tác phẩm của ông luôn phản ánh chân thực cuộc sống và tương ứng với thời đại.
Nổi bật trong sự nghiệp thơ ca của Huy Cận có bài thơ Tràng giang, tác phẩm thể hiện tình yêu quê hương, con người tha thiết của tác giả. Đó là nỗi nhớ nhà, khi đứng trước cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn, nhà thơ có nhiều suy tư khác nhau. Cách tiếp cận vấn đề gần gũi của Huy Cận khiến cho người đọc có thể cảm nhận được nhiều xúc cảm khác nhau.
Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận chia thành hai giai đoạn:
Trước tháng 8 năm 1945, nhà thơ Huy Cận đã cho in tập thơ "Lửa thiêng" bao gồm những bài viết từ năm 1936 đến 1940 trên các báo. Tập thơ này mang một tâm trạng buồn bã, với thiên nhiên rộng lớn nhưng cô đơn. Tuy nhiên, chính tập thơ này đã giúp Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu trong phong trào Thơ Mới (1932-1941). Ông còn viết nhiều tập thơ khác được đăng trên các báo, như "Kinh cầu tự" (1942, văn xuôi triết lí) và "Vũ trụ ca" (thơ đăng trên báo từ 1940 đến 1942), mang một phong cách mới và tươi mới hơn.
Sau tháng 8 năm 1945, thơ của Huy Cận chủ yếu tập trung vào việc kêu gọi và ca ngợi cuộc sống mới, con người mới, do đó giá trị nghệ thuật của các tác phẩm này không cao. Ông cũng sáng tác một số tác phẩm về biển. Các tập thơ trong giai đoạn này bao gồm "Trời mỗi ngày lại sáng", "Chiến trường gần đến chiến trường xa", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời", "Hai bàn tay em" (thơ thiếu nhi), "Họp mặt thiếu niên anh hùng", "Những người mẹ, những người vợ", "Ngày hằng sống ngày hằng thơ", "Ngôi nhà giữa nắng", "Hạt lại gieo" và "Hững năm sáu mươi".
Tác phẩm
Trước tháng 8 năm 1945
Huy Cận đã có các tác phẩm thơ được đăng trên báo từ năm 1936 và cho in tập thơ đầu tiên "Lửa thiêng" vào năm 1940, gồm những bài đã được đăng trên báo từ năm 1936 đến 1940, đưa ông trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới. Tập thơ này thể hiện một nỗi buồn da diết, thiên nhiên được miêu tả bao la nhưng lại hiu quạnh, đẹp nhưng u uất. Tuy nhiên, nỗi buồn đó chủ yếu xuất phát từ tình cảm thương đau về cuộc đời, kiếp người và quê hương đất nước. Huy Cận cố gắng tìm kiếm sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời dù có hồn thơ "ảo não" và bơ vơ. Trong các tác phẩm như "Kinh cầu tự" (1942, văn xuôi triết lý) và "Vũ trụ ca" (thơ đăng trên báo 1940-1942), ông ca ngợi niềm vui và sự sống trong vũ trụ vô biên, nhưng vẫn cảm thấy chưa thoát khỏi bế tắc.
Sau tháng 8 năm 1945
Các tác phẩm của Huy Cận sau Cách mạng tháng 8:
· Trời mỗi ngày lại sáng (tập thơ, 1958),
· Đất nở hoa (tập thơ, 1960),
· Bài thơ cuộc đời (tập thơ, 1963),
· Hai bàn tay em (tập thơ thiếu nhi, 1967),
· Phù Đổng Thiên Vương (tập thơ, 1968),
· Những năm sáu mươi (tập thơ, 1968),
· Cô gái Mèo (truyện thơ, 1972),
· Chiến trường gần đến chiến trường xa (tập thơ, 1973),
· Họp mặt thiếu niên anh hùng (tập thơ thiếu nhi, 1973),
· Những người mẹ, những người vợ (tập thơ, 1974),
· Ngày hằng sống ngày hằng thơ (tập thơ, 1975),
· Sơn Tinh,Thủy Tinh (tập thơ, 1976),
· Ngôi nhà giữa nắng (tập thơ, 1978),
· Suy nghĩ về nghệ thuật (tiểu luận phê bình, 1980 - 1982),
· Hạt lại gieo (tập thơ, 1984),
· Tuyển tập Huy Cận tập I (tuyển tập thơ, 1986),
· Chim làm ra gió (tập thơ, 1991),
· Một cuộc cách mạng trong thi ca (chủ biên cùng Hà Minh Đức, 1993),
· Tào Phùng (tập thơ, 1993),
· Thơ tình Huy Cận (tuyển tập thơ, 1994),
· Nước triều Đông (Mareés de la Mer Orientale) (tập thơ tiếng Pháp, 1994),
· Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (văn hóa, 1994),
· Các vùng văn hoá Việt Nam (chủ biên cùng Đinh Gia Khánh, 1995),
· Tuyển tập Huy Cận II (tuyển tập thơ, 1995),
· Thông điệp từ vừng sao và từ mặt đất (Messages stélaires et Terrestres) (tập thơ tiếng Pháp, 1996),
· Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (tập thơ, 1997),
· Ta về với biển (tập thơ, 1997),
· Hồi ký song đôi (tự truyện, 1997),
· Lửa hồng muối mặn (tập thơ, 2001),
· Cha ông nghìn thuở (tráng ca, 2002),...
Danh tiếng nghệ thuật của Huy Cận
Trước đó, vào năm 1996, Huy Cận đã được Nhà nước vinh danh với Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Năm 2001, ông đã trở thành viện sĩ của Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
Năm 2005, Ngày 23 tháng 2, Huy Cận đã được trao tặng Huân chương Sao Vàng từ Nhà nước.
Để tưởng nhớ tài năng và đóng góp của nhà thơ Huy Cận, một số thành phố và huyện đã đặt tên đường phố và trường học mang tên ông, như Đồng Hới, Quảng Bình (đường nối Nguyễn Bỉnh Khiêm với Mạc Đĩnh Chi), huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh (quê hương của ông), và thành phố Hà Tĩnh (đường Huy Cận ở Phường Nguyễn Du giao với đường Xuân Diệu).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét