Nhà thơ Thu Bồn, tên thật là Hà Đức Trọng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1935 tại Quảng Nam, mất ngày 17 tháng 6 năm 2003), là một nhà thơ, nhà văn Việt nam.
Thu Bồn sinh tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào bộ đội năm mười một tuổi và là thiếu sinh quân ở đơn vị biệt động chiến đấu. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ông làm phóng viên chiến trường Liên khu V sau đó về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thu Bồn là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền Trung Trung Bộ và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Ngoài bút danh đặt theo tên dòng sông Thu Bồn quê hương, ông còn có các bút danh khác là Hà Ðức Trọng, Bờ Lốc.
Ngoài thơ, Thu Bồn còn viết tiểu thuyết, nhưng ông được biết đến nhiều với những bài trường ca, trong đó Bài ca chim Chơ Rao vẫn được coi là thành công có tính định hướng cho phong cách tiêu biểu của ông và "không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá sớm, mà còn là bản trường ca đầu tiên của văn học giải phóng". Đây là khúc ca ca ngợi lòng yêu tự do, ý chí bất khuất của những con người Tây Nguyên trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ được giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam.
Sự nghiệp sáng tác
· Thu Bồn có sức bút mạnh mẽ. Ông viết nhanh, viết nhiều, chất lượng khá đều. Ông có nhiều tác phẩm về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đánh thức trí tưởng tượng của ông từ tuổi bé thơ. Ông sử dụng nhuần nhuyễn các chất liệu Tây Nguyên, hơn thế ông kỳ ảo hoá, tạo thêm sức mê đắm hoang dại và thần kỳ.
· Ngòi bút Thu Bồn vốn phóng khoáng và gợi cảm, được dịp tung hoành trong các khung cảnh hoành tráng, hành động, hùng vĩ, kỳ ảo.
· Do đi nhiều, thâm nhập cuộc sống nhanh, nhạy bén và sắc sảo nên tác phẩm của Thu Bồn rất giàu chất liệu hiện thực, bề bộn và tươi rồi sự sống ; nhiều trang văn xuôi giàu chất thơ…
· Những năm cuối đời, thơ ông hướng về khám phá nội tâm, đúng hơn là chiêm nghiệm lại tháng ngày ông đã sống.
Phong cách sáng tác
Thu Bồn có sức bút mạnh mẽ. Ông viết nhanh, viết nhiều, chất lượng khá đều. Ông có nhiều tác phẩm về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đánh thức trí tưởng tượng của ông từ tuổi bé thơ. Ông sử dụng nhuần nhuyễn các chất liệu Tây Nguyên, hơn thế ông kỳ ảo hoá, tạo thêm sức mê đắm hoang dại và thần kỳ.
Ngòi bút Thu Bồn vốn phóng khoáng và gợi cảm, được dịp tung hoành trong các khung cảnh hoành tráng, hành động, hùng vĩ, kỳ ảo.
Do đi nhiều, thâm nhập cuộc sống nhanh, nhạy bén và sắc sảo nên tác phẩm của Thu Bồn rất giàu chất liệu hiện thực, bề bộn và tươi rồi sự sống ; nhiều trang văn xuôi giàu chất thơ…
Những năm cuối đời, thơ ông hướng về khám phá nội tâm, đúng hơn là chiêm nghiệm lại tháng ngày ông đã sống.
Thời trẻ/ khi chưa nổi tiếng
· Năm 11 tuổi, ông vào bộ đội và là thiếu sinh quân ở đơn vị biệt động chiến đấu.
· Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ông làm phóng viên chiến trường Liên khu V, sau đó chuyển về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.
· Nhà thơ Thu Bồn là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền Trung Trung Bộ và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV.
Tác phẩm
· Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962),
· Tre xanh (thơ, 1965),
· Mặt đất không quên (thơ, 1970),
· Chớp trắng (tiểu thuyết, 1970),
· Hòn đảo chân ren (tiểu thuyết, 1972),
· Dòng sông tuổi thơ (tiểu thuyết, 1973),
· Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập, 1975),
· Badan khát (trường ca, 1976),
· Cămpuchia hy vọng (trường ca, 1978),
· Oran 76 ngọn (trường ca, 1979),
· Em bé trong rừng thốt nốt (truyện, 1979),
· Đỉnh núi (tiểu thuyết, 1980)
· Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985),
· Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985),
· Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (tiểu thuyết, 1986),
· Vùng pháo sáng (tiểu thuyết, 1986),
· Cửa ngõ miền Tây (tiểu thuyết, 1986),
· Em bé vào hang cọp (tiểu thuyết, 2 tập, 1986),
· Dưới tro (tập truyện ngắn, 1986),
· Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992),
· Tôi nhớ mưa nguồn (thơ, 1999),
· Trường ca tuyển tập (1999),
· Tuyển thơ Thu Bồn (2015)...
Thành tựu nghệ thuật
Giải thưởng
· Giải văn học Nguyễn Đình Chiểu
· Giải thưởng văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973)
· Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969)
· Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001
· Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2017 cho các tác phẩm: các tiểu thuyết "Chớp trắng", "Vùng pháo sáng" và tập truyện ngắn "Dưới tro".
0 nhận xét:
Đăng nhận xét