Tiểu sử
Xuân Diệu có tên thật là Ngô Xuân Diệu sinh ngày 2-2-1916 tại Bình Định. Ông còn biết đến với một bút danh khác là Trảo Nha, đây chính là tên quê quán của cha ông tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Xuân Diệu được sinh ra trong một gia đình nhà nho hiếu học, có cha là Ngô Xuân Thọ đỗ tú tài kép Hán học, vì vậy sự nghiệp học hành của ông rất được đào tạo và hướng dẫn rất bài bản, quy củ. Cha ông là thầy giáo dạy học nên từ nhỏ ông đã được học chữ Nho và chữ Quốc ngữ với cha, sau đó tiếp tục học ở các ngôi trường có tiếng khác như trường Bưởi (Hà Nội) và trường Khải Định (Huế).
Năm 1937, Xuân Diệu đến Hà Nội để học Luật và bắt đầu viết báo. Ông cũng tham gia Tự Lực Văn Đoàn - một trong những tổ chức nghệ sĩ hàng đầu ở miền Bắc thời đó. Sau khi tốt nghiệp đại học và trở thành cử nhân Luật, vào năm 1943 ông được bổ nhiệm làm viên chức tại Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) và đồng thời làm giáo viên. Tuy nhiên, sau một năm ông quyết định từ chức và trở về Hà Nội để sống bằng nghề viết văn.
Vào năm 1944, Xuân Diệu tích cực tham gia vào các hoạt động cách mạng phục vụ cho cuộc kháng chiến. Ông bắt đầu bằng việc tham gia vào phong trào Việt Minh trước khi gia nhập Đảng Cộng sản. Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, ông tiếp tục hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc và được bổ nhiệm làm thư ký tạp chí Tiền Phong. Vào năm 1948, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông cũng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1, 2, 3 từ năm 1957 đến năm 1985. Năm 1983, ông được bầu làm Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức. Ông qua đời vào ngày 18 tháng 12 năm 1985. Hiện nay, người hâm mộ có thể tới thăm nhà tưởng niệm và nhà thờ của ông tại làng Trảo Nha, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Cuộc sống gia đình
Xuân Diệu kết hôn với nghệ sĩ NSND Bạch Diệp, nhưng sau đó hai người đã ly dị và không có con chung. Sau khi ly dị, ông sống độc thân cho đến khi qua đời vào năm 1985.
Huy Cận là người cùng quê với Xuân Diệu ở làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Khi hai người gặp nhau, họ trở thành đôi bạn thân. Vợ của Huy Cận, bà Ngô Thị Xuân Như, là em gái của Xuân Diệu. Một số trang báo lớn đã đưa tin về quan hệ thân thiết giữa hai người và có nhiều người nghi ngờ rằng họ có quan hệ đồng tính. Huy Cận và Xuân Diệu từng ở chung một nhà trong nhiều năm. Bài thơ "Tình trai" của Xuân Diệu và "Ngủ chung" của Huy Cận được cho là viết về đề tài đó. Tuy nhiên, ông cũng đã viết một số bài thơ khác về nhà thơ Hoàng Cát, như bài thơ "Em đi" để tặng cho nhà thơ này. Theo hồi ký "Cát bụi chân ai" của Tô Hoài, Xuân Diệu từng bị kiểm điểm vì viết về chủ đề này.
Mặc dù những bài thơ tình của Xuân Diệu thường sử dụng các cách diễn đạt và đại từ ám chỉ các mối quan hệ giữa nam và nữ, tuy nhiên, nhiều người, kể cả bạn bè của ông, đã nghi ngờ ông có tính chất đồng tính. Theo Tô Hoài, một nhà văn, việc ông có mối quan hệ thân thiết với một số đồng đội đã bị cảnh cáo bởi quân đội. Tuy nhiên, đến ngày nay, các bài thơ của ông về tình yêu vẫn là một chủ đề gây tranh cãi.
Xuân Diệu nuôi dưỡng Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, con trai của nhà thơ Huy Cận và cũng là cháu ruột của ông.
Tác phẩm
-Thơ
· Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970), 46 bài thơ
· Gửi hương cho gió (1945, 1967), 51 bài thơ
· Ngọn Quốc kỳ (1945, 1961)
· Hội nghị non sông (1946)
· Dưới sao vàng (1949), 27 bài thơ
· Sáng (1953)
· Mẹ con (1954), 11 bài thơ
· Ngôi sao (1955), 41 bài thơ
· Riêng chung (1960), 49 bài thơ
· Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962), 49 bài thơ
· Một khối hồng (1964)
· Hai đợt sóng (1967)
· Tôi giàu đôi mắt (1970)
· Mười bài thơ (1974)
· Hồn tôi đôi cánh (1976)
· Thanh ca (1982)
· Tuyển tập Xuân Diệu (1983)
-Văn xuôi
· Phấn thông vàng (1939, truyện ngắn), 17 truyện
· Trường ca (1945, bút ký), 9 bài
· Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút ký)
· Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký)
· Việt Nam trở dạ (1948, bút ký)
· Ký sự thăm nước Hung (1956, bút ký)
· Triều lên (1958, bút ký)
-Tiểu luận phê bình
· Thanh niên với quốc văn (1945)
· Tiếng thơ (1951, 1954)
· Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký)
· Ba thi hào dân tộc (1959)
· Phê bình giới thiệu thơ (1960)
· Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961)
· Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961)
· Dao có mài mới sắc (1963)
· Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966)
· Đi trên đường lớn (1968)
· Thơ Trần Tế Xương (1970)
· Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971)
· Và cây đời mãi xanh tươi (1971)
· Mài sắt nên kim (1977)
· Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978)
· Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982)
· Tìm hiểu Tản Đà (1982).
-Dịch thơ
· Thi hào Nadim Hitmet (1962)
· V.I. Lênin (1967)
· Vây giữa tình yêu (1968)
· Việt Nam hồn tôi (1974)
· Những nhà thơ Bungari (1978, 1985)
· Nhà thơ Nicôla Ghiđen (1982)
Các thành tựu nghệ thuật của Xuân Diệu bao gồm:
Năm 1996, ông đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tên của ông được đặt cho nhiều địa điểm ở Việt Nam như một đường phố ở Hà Nội, một con đường ở Quy Nhơn (Bình Định), một trường trung học phổ thông ở huyện Tuy Phước (Bình Định), và một trường THCS tại huyện Can Lộc (Hà Tĩnh).
Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, có một con đường được đặt theo tên Xuân Diệu ở phường Nam Lý.
Ông được tưởng niệm bằng việc lập một nhà tưởng niệm và nhà thờ tại làng Trảo Nha, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (nằm bên cạnh đường lên Ngã Ba Đồng Lộc). Ở TPHCM, có một con đường được đặt theo tên ông ở quận 4.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét