Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

LƯU TRỌNG LƯ

Lưu Trọng Lư (1911-1991) là một danh nhân Việt Nam, được biết đến là nhà thơ, nhà văn và nhà soạn kịch.

Tiểu sử

Lưu Trọng Lư sinh sống tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại có nền tảng nho học. Trong thời thơ ấu, ông được đưa đến học tại trường tỉnh và tiếp tục học tập tại Quốc học Huế (đến năm thứ 3) và Hà Nội trước khi rời bỏ để trở thành một giáo viên tư, nhà văn và phóng viên để kiếm sống.

Năm 1932, ông là một trong những người đồng sáng lập và thúc đẩy phong trào Thơ mới.

Trong khoảng thời gian từ năm 1933 đến 1934, ông chủ trương mở Ngân Sơn tùng thư tại Huế.

Năm 1941, tác phẩm của ông và những nhà thơ khác đã được giới thiệu trong cuốn sách Thi nhân Việt Nam do Hoài Thanh và Hoài Chân biên tập.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia vào hoạt động Văn hóa cứu quốc tại Huế. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia vào các hoạt động tuyên truyền và văn nghệ tại Bình Trị Thiên và Liên khu IV.

Sau năm 1954, ông làm việc tại Bộ Văn hóa và được bổ nhiệm làm Tổng Thư ký của Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông trở thành hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông qua đời tại Hà Nội vào ngày 10 tháng 8 năm 1991, hưởng thọ 80 tuổi. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật vào năm 2000. Con trai thứ 9 của ông là đạo diễn Lưu Trọng Ninh.

Sự nghiệp

Lưu Trọng Lư bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng việc dạy học và làm việc báo chí để kiếm sống. Năm 1932, ông trở thành một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho phong trào Thơ mới. Năm 1933-1934, ông chủ trương mở Ngân Sơn tùng thư ở Huế. Năm 1941, tác phẩm thơ của ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền và văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông đã để lại một tập thơ đáng chú ý mang tên Tuyển thơ Lưu Trọng Lư, và một số tác phẩm văn xuôi như Tạp văn Đường thu, Điểm thăm. Ông cũng đóng góp rất nhiều cho sân khấu Việt Nam với các tác phẩm như Lão Hạc, Tìm mẹ, Lớp trưởng tốt, Chân dung Đoàn Lễ...

Lưu Trọng Lư được tôn vinh và được trao nhiều giải thưởng trong sự nghiệp của mình, trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2000.

Phong cách

Phong cách thơ của Lưu Trọng Lư có đặc trưng là tận dụng những hình ảnh sinh động, giản dị nhưng sâu sắc để truyền tải tâm tình, cảm xúc và suy nghĩ của mình đến độc giả. Ông sử dụng ngôn từ súc tích, đơn giản, dễ hiểu nhưng cũng không kém phần sâu sắc, tinh tế, lôi cuốn người đọc.

Lưu Trọng Lư là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho phong trào Thơ mới. Ông cũng được biết đến với việc sáng tác nhiều tác phẩm văn xuôi, trong đó có những tác phẩm viết về văn hóa, lịch sử và xã hội Việt Nam.

Gia đình

Lưu Trọng Lư sinh ra trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Ông là con thứ sáu trong mười người con của gia đình. Cha của ông là Lưu Văn Phấn, một quan chức nhà Nguyễn và làm quan đến chức Bộ trưởng. Mẹ của ông là bà Nguyễn Thị Nhiên. Ông có nhiều anh chị em ruột và anh chị em cùng cha khác mẹ.

Tác phẩm

Thơ
Tiếng thu (1939), 52 bài
Tỏa sáng đôi bờ (1959)
Người con gái sông Gianh (1966)
Từ đất này (197l)
Chị em (1973)
Bâng khuâng (1988)
Bao la sầu (1989)
Cung đàn mùa xuân (thơ Lưu Trọng Lư, nhạc Cao Việt Bách, ng: bcdcnt.net"bài ca đi cùng năm tháng")

Sân khấu
Nữ diễn viên miền Nam (cải lương)
Cây thanh trà (cải lương)
Xuân Vỹ Dạ (kịch nói)
Anh Trỗi (kịch nói)
Hồng Gấm, tuổi hai mươi tới rồi (kịch thơ,1973)

Văn xuôi
Người sơn nhân (tập truyện ngắn, 1933)
Những nét đan thanh (truyện ngắn, 1934)
Huyền Không động (truyện ngắn, 1935)
Cô Nguyệt (truyện ngắn, 1937)
Con đười ươi (truyện ngắn, 1938)
Huế - một buổi chiều (truyện ngắn, 1938)
Một người đau khổ (truyện ngắn, 1939)
Chạy loạn (truyện ngắn, 1939)
Cô gái tân thời (truyện ngắn, 1939)
Một tháng với ma (truyện ngắn, 1940)
Chiếc cáng xanh (truyện dài, 1941)
Khói lam chiều (truyện dài, 194l)
Cô Nhung (truyện ngắn, 1941)
Mẹ con (truyện ngắn, 1942)
Em là gái trong khung cửa (truyện ngắn, 1942)
Dòng họ (truyện ngắn, 1943)
Hổ với Mọi (truyện ngắn, 1944)
Chiến khu Thừa Thiên (truyện vừa, 1952)
Truyện cô Nhụy (truyện vừa, 1962)
Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978)
Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)




0 nhận xét:

Đăng nhận xét