Thứ Hai, 22 tháng 5, 2023

TỐ HỮU



Tiểu sử

· Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ông là con út trong gia đình. Đến năm 9 tuổi ông cùng cha trở về làng Phù Lai,ngày nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha của ông là một nhà Nho nghèo, thi không đỗ đạt, phải bươn chải kiếm sống, nhưng ông rất yêu thơ, thích sưu tầm ca dao, tục ngữ. Bác dạy Tố Hữu làm thơ xưa.Mẹ của anh cũng là con gái của một nhà Nho nghèo nhưng thuộc rất nhiều các làn điệu ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã nuôi dưỡng hồn thơ cho Tố Hữu. 
 • Mẹ anh mất khi anh mới 12 tuổi. Năm 13 tuổi ông thi đổ vào trường Quốc Học Huế. Tại đây bạn sẽ được tiếp xúc trực tiếp với những tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin và Maksim Gorky... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các chiến sĩ ĐCSVN lúc bấy giờ như (Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn), Nguyễn Kim Thành sớm đến gần lý tưởng hàng. . Năm 1936 ông gia nhập Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương.

Hoạt động cách mạng

· Năm 1938, ông đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.Đến tháng 4 năm 1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man sau đó đưa vào Nhà lao Thừa Phủ (Huế), tiếp đến chuyển ra Nhà lao Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. Tháng 3-1942, ông vượt ngục Đắc Glei (nay thuộc Kon Tum) và tìm về Thanh Hóa. Tại đây ông bắt liên lạc với đảng (về hoạt động bí mật tại huyện Hậu Lộc và làng Tam Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung. , tỉnh Thanh Hóa). Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bắt đầu bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế.

· 1946 Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa.Cuối năm 1947, ông lên Việt Bắc hoạt động văn nghệ tuyên truyền. Từ đó đến nay ông giữ các chức vụ quan trọng trong ngành văn nghệ, lãnh đạo đảng và nhà nước:

· 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

· 1952: Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền Văn hóa Phủ Thủ tướng.

· 1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền.

· 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

· Tại Đại hội II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên Toàn quyền.

· Trên III. Đại hội Đảng (1960): Kết nạp Ban Bí thư.

· Tại Đại hội IV (1976): Phó Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương.

· Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị.

· 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng) cho đến 1986.Ông cũng là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương.

· Trong thời gian làm trưởng ban văn nghệ ông là người phê phán gay gắt phong trào nhân văn – Giải Phóng (1958). Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Vụ trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông cũng là đại biểu Quốc hội khóa II và VII.

· Năm 1969, ông được giao làm người cuối cùng sửa điếu văn trong lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để nâng cao lời ngợi ca, đi vào lòng người.

Đóng góp văn học

· Ở Tố Hữu có sự thống nhất cao đẹp giữa cuộc đời, cách mạng và đời thơ, giữa lí tưởng ở trái tim và những câu thơ ở đầu ngòi bút. Hành trình thơ Tố Hữu là hành trình lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”. “nhà thơ của nhân dân”, “là ngọn cờ xung trận của thơ ca cách mạng Việt Nam năm ”, “có công xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”. Một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Văn nghệ - Tình yêu", "Nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn Cách mạng".

• Trong hai cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác nhiều bài thơ động viên tinh thần bộ đội và nhân dân, gắn liền với toàn bộ lịch sử của cuộc kháng chiến, nổi tiếng nhất là các bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Mừng chiến sĩ Điện Biên, Máu và hoa Việt Nam, Từ Cuba,...

• Thơ Tố Hữu thưa thớt và ngọt ngào thấm vào lòng mọi thế hệ, từ kẻ “lạc vào rừng non” hay “thuở nhỏ đến với thơ ông” (lời bình của Nguyễn Khoa Điềm ), được giữ vững và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh.

Các tác phẩm chính

· Từ ấy (1937 – 1946), 72 bài thơ

· Việt Bắc (1947 – 1954), 26 bài thơ

· Gió lộng (1955 – 1961), 25 bài thơ

· Ra trận (1962 – 1971), 35 bài thơ

· Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)

· Máu và Hoa (1972 – 1977), 13 bài thơ

· Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)

· Một tiếng đờn (1978 – 1992), 74 bài thơ

· Ta với ta (1992 – 1999)

· Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)

· Một khúc ca xuân (thơ, 1977)

Phong tặng và Giải thưởng văn học

· Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc)

· Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn.

· Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996)

· Huân chương Sao Vàng (1994)

· Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...

Sự kiện rắc rối sau khi ông mất Ông mất năm 2002 vì bệnh hiểm nghèo. Bài phỏng vấn của Tố Hữu với tựa đề: “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng” của Nhật Hòa Khánh đăng sau khi ông qua đời đã vấp phải sự phản đối của gia đình. Tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu phổ biến trong giới truyền thông và nghệ thuật Việt Nam. Tháng 5-2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 số ,đoạn văn bản này với nhan đề “An Hữu” và “Giải cứu các chiến sĩ Điện Biên” (số 3 ra ngày 7-5-2004). Ngoài ra, bài viết này còn được đăng trên nhiều chuyên mục nhỏ trên các báo khác như Nhân Dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc đến các sự kiện văn nghệ trước đây như Nhà Nhân-Bài, văn thơ cách mạng và phong trào văn nghệ, ông Tố Hữu đã có lá thư khen ngợi những người này.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét