· Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên đầy đủ Nguyễn Trọng Trí; 22 tháng 9 năm 1912 – 11 tháng 11 năm 1940) là một nhà thơ người Việt Nam, người thành lập Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, Lệ Thanh và Phong Trần là các bút danh khác của ông. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định đặt Bàn thành tứ hữu, tức Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn gồm Hàn Mạc Tử và các người tình trong thơ: Thương Thương, Kim Cúc, Mộng Cầm, Ngọc Sương, Mai Đình. Tổ tiên của Hàn Mặc Tử xuất thân từ họ Phạm ở tỉnh Thanh Hóa. Cụ tổ là Phạm Chương bị truy nã vì gia đình làm quan, con trai là Phạm Bôi phải vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo họ mẹ. Ông Nguyễn Văn Toản lấy bà Nguyễn Thị Duy (con Nguyễn Long, danh y thời Đức Công) sinh được 8 người con:
· • Nguyễn Bá Nhân (nghĩa là nhà thơ Mạnh Châu) cũng là người thầy của Hàn Mặc Tử trên con đường thơ ca
òa về Ghềnh Ráng ngày 13-2-1959).
· • Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy H
Thuở nhỏ
· Ông Nguyễn Văn Toàn quê ở làng Lệ Mỹ, Quang Bình, Đồng Hới khi ông là Chủ tịch Sở Thương mại Chánh Nhật Lệ-Đồng Hới. Hàn Kết Đồ lớn lên cùng cha đi nhiều nơi, lần lượt học trường tiểu học Thiểm Tây (1920), Quy Nhân, Phượng Sơn (1921-1923), Thiểm Tây (1924)... đến năm 1926, ông cố nội. Ông nội Hàn Mai Tử lâm bệnh mất ở Huế khi mới sinh ra, Hàn Mai Tử được mẹ gửi vào trường Pellerin Huế để tiếp tục học. Năm 1930, Hàn Mặc Tử bỏ học theo mẹ vào Qui Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình ông theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phê Rô Phanxicô.
• Hàn Kết Đồ vóc dáng yếu ớt, tính tình hiền lành chất phác, hiếu học ham học, thích kết bạn trong lĩnh vực văn thơ. Vì thân phụ là Nguyễn Văn Quân là một nhà thông ngôn, ký lục, thường đi nhiều nơi, công tác nhiều nên Hàn Maiqtu cũng theo học ở các trường khác nhau như Thiểm Tây (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1920). 1921–1923), Pellerin Hugh (1926).
Sự nghiệp làm thơ
• Ông có khiếu làm thơ từ năm 16 tuổi. Anh ấy đã gặp Pan Peizhu và bị ảnh hưởng sâu sắc bởi người phóng viên. Phan Bội Châu giới thiệu cho ông một tờ báo. Sau đó, anh nhận được học bổng sang Pháp, nhưng vì quá thân với Pan Peizhu nên anh phải từ bỏ. Năm 21 tuổi, ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, lúc đầu ông làm ở Nha điền chủ.
• Sau khi vào Sài Gòn làm phóng viên, phụ trách mục thơ của báo Người Công. Lúc đó Vương Khang ở Phan Thiết cũng làm thơ và thường gửi báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ, và anh quyết định đến Phan Thiết để gặp Mộng Cầm.
Bệnh tật của ông
· Khoảng đầu năm 1935, theo lời kể của gia đình Hàn Kết Đồ, họ phát hiện ông có dấu hiệu mắc bệnh phong hủi. Tuy nhiên, anh ta không quan tâm, vì anh ta nghĩ đó là một bệnh phong cùi tầm thường. Cho đến năm 1936, ông xuất bản tập Gái quê, rồi vào Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, và vào Sài Gòn lần thứ hai thì bà Bút Trà cho biết đã hoàn tất giấy phép tòa soạn báo Phụ nữ Văn mới và quyết định thuê Han McToo làm biên tập viên, và sau đó anh ấy nghĩ về căn bệnh của mình. Nhưng ý của anh là muốn chữa dứt điểm một loại bệnh “ngứa” để có thể lên Sài Gòn làm phóng viên chứ không mong mắc bệnh nan y. Từ năm 1938 đến năm 1939, Han Ketu vô cùng đau đớn. Tuy nhiên, bên ngoài, không ai nghe thấy tiếng anh rên rỉ. Anh chỉ biết khóc trong thơ. Trước khi Han Mektu vào trại phong Guihe, em trai của nhà thơ là Nguyen Badin đã nói rằng bệnh tình của em trai anh ấy như thế này: da khô, nhưng tay có nếp nhăn nhẹ,Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile - Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên.
Bút danh Hàn Mặc Tử
· Ngôi mộ đầu tiên của Hàn Mặc Tử (nay là mộ Gió) ở trại cùi Quy Hòa, ông làm thơ từ năm 16 tuổi và lấy tên là Phong Trần, sau đó là Lê Thanh. Năm 1936, khi tờ Saigoner Zeitung bắt đầu bổ sung, tờ này đổi tên thành Hàn Mặc Tử, nghĩa là chàng trai sau bức màn trống lạnh. Sau đó, bạn bè gợi ý anh nên vẽ vầng trăng khuyết trên tấm rèm lạnh lẽo để thể hiện nỗi cô đơn độc nhất vô nhị của con người trước thiên nhiên, vạn vật."Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
Đánh giá và bình luận
• Cuộc đời Hàn Mặc Tử có một nhân duyên với 4 chữ “bình yên”: ông sinh ra ở Quảng Bình, làm báo ở Tân Bình, có tình nhân ở Bình Thuận và mất ở Bình Định. Ông nổi tiếng với nhiều mối tình với nhiều người đàn bà khác nhau để lại nhiều dấu ấn trong thơ ông, có người ông gặp mặt, có người chỉ trao đổi qua thư từ, có người chỉ biết tên như Mộng
Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Mộ Hàn Mạc Tử ở Ghềnh Ráng
“Không ai trước, không ai sau, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi lướt qua bầu trời Việt Nam với chiếc đuôi phát sáng” “Tôi hứa với bạn rằng trong tương lai, sự tầm thường, chuẩn mực sẽ biến mất, và điều duy nhất còn lại của đó là Hàn Mặc Tử”. (Nhà thơ Chế Lan Viên) “Không thể cắt nghĩa trọn vẹn hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ dựa vào thi pháp của Chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm về lý thuyết của Hàn Mặc Tử. Tượng trưng và siêu thực trong thơ Trong tranh siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, hình và không, phàm và tục, hữu hình và vô hình, bên trong và bên ngoài, chủ thể và khách thể, thế giới hữu tình và phi tình cảm của sự nghi hoặc.Nhà thơ đã có những so sánh, tương phản và kết hợp kỳ lạ tạo cho người đọc một sự ngạc nhiên và hãi hùng độc đáo.
Tác phẩm
· Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có:
· Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật)
· Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời)
· Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2. Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên-1938)
· Xuân như ý
· Thượng Thanh Khí (thơ) Cẩm Châu Duyên
0 nhận xét:
Đăng nhận xét