Tiểu sử
• Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1907 tại làng Thái Hà, Hà Nội. Quê cha ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định. Tên Nguyễn Đình Lễ sau đổi là Nguyễn Thủ Lễ vì ông là con thứ. Năm lên 10 tuổi, anh trai (hơn ông một tuổi) mất, ông lại đổi tên là Nguyễn Đình Lễ. Lớn lên ông lấy số đổi tên là Nguyễn Thứ Lễ, khi viết là Nguyễn Thế Lữ, sau rút gọn là Thế Lữ.Bút danh Thế Lữ, nghĩa là “khách qua đường”, phù hợp với nhân sinh quan của ông lúc bấy giờ. Ông còn có tên khác là Nguyễn Khắc Thảo nhưng về sau đi theo tên cũ. Khi viết báo, thỉnh thoảng ông ký bút danh hài hước là Lê Ta, bắt nguồn từ cái tên Lê, trở thành "Lê Nga", trong đó "ta" cũng có nghĩa là "mùa thu".
Cuộc đời
· • Thế Lữ (13 tuổi) cùng mẹ và em gái (1921). Thế Lữ học chữ Nho năm 8 tuổi và chữ Quốc ngữ năm 10 tuổi. Sau cái chết của anh trai, anh trở về Hải Phòng sống với mẹ. . Tại Hải Phòng, ông học tư thục với cha của Vũ Đình Quý, người bạn thân đầu tiên của ông. Ít lâu sau ông xin vào học trường Pháp Việt (École commonale) mới mở trên ngõ Nghè. Năm 1924 ông đỗ tiểu học , được một năm thì ông ngã bệnh.Lúc đó, Thế Lữ mới 17 tuổi, cưới bà Nguyễn Thị Khương, người vợ hơn ông hai tuổi.
• Năm 1925, ông thi vào Trường tiểu học Bonnal Hải Phòng, học được ba năm thì bỏ. Những năm học ở Thành Chung, ông chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của học sinh, báo chí Việt Nam gửi từ Pháp về, và các thầy giáo như Trịnh Đình Rư, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tạo. Năm 1928, ông gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và hoạt động cùng Nguyễn Văn Linh tại Hải Phòng. Theo Nguyễn Đình Thi, năm 1930, khi Đoàn Thanh niên trở thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Thế Lữ không được vào đảng, mặc dù tán thành đường lối của đảng, vì gia đình ông theo đạo Công giáo.Năm 1929, ông lên Hà Nội, thi đỗ dự thính vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học cũng chỉ một năm rồi lại bỏ do bất mãn với một giáo sư và giám hiệu của trường. Ở trường mỹ thuật, ông chơi thân nhất với những bạn như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc; cùng với Vũ Đình Liên, Ngô Bích San, Hoàng Lập Ngôn... tổ chức một salon littéraire, chuyên thảo luận về văn học.
· Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, với những truyện đầu tiên ghi lại những gì ông nghe thấy khi ở Lạng Sơn. Được sự khuyến khích của Vũ Đình Liên, Thế Lữ đã gửi các tác phẩm đầu tay của mình cho Nhà xuất bản Tân Dân, ký thêm bút danh tưởng tượng "Đào Thị Tô cùng viết với Thế Lữ" nhằm thu hút sự chú ý. Hai cuốn Một truyện báo thù ghê gớm và Tiếng hú hồn của mụ Ké sau được Vũ Đình Long khen ngợi và cho in ra, điều này cũng đã khuyến khích Thế Lữ rời bỏ trường Mỹ thuật. Một nguyên nhân khác nữa bởi ông bị lao, tuy nhiên sau đó được chữa khỏi bệnh. Từ bỏ con đường hội họa, Thế Lữ bước hẳn sang hoạt động sáng tác văn chương.
Hoạt động văn học và Tự Lực văn đoàn
· Trước khi về Hải Phòng, Thế Lữ làm biên tập viên báo in cho tờ Volonté Indochinoise (Di chúc Đông Dương), ông thường ra làm việc ở Thảo cầm viên Hà Nội, trong thời gian này ông đã viết bài thơ Nhớ rừng nổi tiếng. Sau khi về Hải Phòng, mẹ bà dựng một căn nhà tranh cạnh Đồ Sơn để chữa bệnh. Thế Lữ bắt đầu tập trung vào viết văn và làm thơ. Một trong những bài thơ đầu tay của ông từ năm là Lời than thở của một cô gái mỹ nghệ và Chọn cây đàn piano để gửi cho bạn bè ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội. Ông cũng viết những chuyện tình như Suối Lá đăng trên nhiều báo, cũng như sách của Tân Dân. • Tháng 3 năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên ban đầu: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hưng, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, cũng là những thành viên cốt cán của Phong Hóa (mới).Thế Lữ nhất trí với quan điểm của Tự lực văn đoàn và Phong hóa: lên án tư tưởng Nho giáo phong kiến, đả kích một cách hài hước các hủ tục và tệ nạn xã hội, đồng thời giữ vững quan niệm sáng tác, giải phóng cá nhân và đấu tranh xây dựng nền văn học, canh tân văn hóa Việt Nam. Ngôn ngữ. Gần 10 năm nay, hoạt động văn chương, báo chí của Thế Lữ gắn liền với Tự Lực Văn Đoàn và cũng gần như bị thu hẹp lại trong thời gian này. Về báo chí, ông tham gia viết và biên tập tờ Phong Hóa rồi Ngày Nay (bắt đầu sau khi Phong Hóa đóng cửa năm 1936). Ông viết bài cho các chuyên mục Review, Review sách, Từ cao xuống thấp dưới các bút danh Thế Lữ, Lê Ta, Mười Ba Sướng.., (lão) rồi “Phóng sự”, “Thơ tin”, “Văn đề tin... đoản”... (Ngày nay). Ngoài những bài viết cố định, Thế Lữ còn có nhiều bài viết, bài bình luận, phân tích về các đề tài văn học nghệ thuật, điểm sách. Ông làm giám khảo ba cuộc thi Tự lực văn đoàn (1935, 1937, 1939) và bỏ phiếu xác nhận các tác phẩm đoạt giải.Mục Thơ mới do ông làm giám sát cũng phát hiện và phát huy một số khả năng mới trong thơ; Đồng thời, Thế Lữ cùng với Lưu Trọng Lư, Huy Thông và nhà thơ, tác giả khác cũng có những đóng góp to lớn cho sự thành công của phong trào Thơ mới bằng việc chống thơ cũ, bảo vệ và phát huy bài mới thông qua xuất bản. Các mặt hàng, bao gồm cả sáng tạo của riêng bạn. Bài thơ “Nhớ rừng” đã có tác động mạnh mẽ đến công chúng cùng với những bài thơ nổi tiếng khác sau này như “Tiếng sáo đa điệu”, Tiếng sáo của Thiện Thái... đăng ở Phong Hóa, sau được sưu tầm vào năm trong tập “ Bộ sưu tập đầu tiên của anh ấy về ". Tập thơ Mấy bài thơ (1935) đã góp phần làm nên thắng lợi hoàn toàn của phong trào Thơ mới và đưa ông trở thành nhà thơ tiêu biểu của Thơ mới buổi đầu.Ngoài ra, ông còn có nhiều tác phẩm văn xuôi thuộc các thể loại trinh thám, kinh dị, lãng mạn cũng thu hút sự quan tâm của công chúng. • Từ năm 1937, ông dành nhiều thời gian và sức lực cho sân khấu kịch, mặc dù ông vẫn tiếp tục làm việc cho tờ Hoy cho đến khi tờ này đóng cửa (sau năm 1940). Sau 1945, sinh hoạt và tư tưởng của Lữ hoàn toàn tách biệt với Nguyễn Tường Tam, Khải Hưng, Hoàng Đạo. Sau này, Thế Lữ đã thẳng thừng phủ nhận gần như toàn bộ đóng góp của Tự lực văn đoàn cho nền văn hóa dân tộc, và bị Phạm Đình Ân coi là tư duy cực đoan, phiến diện, nhất thời trong bối cảnh xã hội chính trị đương thời. Tuy nhiên, trong những năm cuối đời, Thế Lữ nhớ lại thời kỳ đó: “Thời đó chưa có báo Phong Hóa. Không có bạn Tự Lực ngày nay, không có bạn văn chương ngày này. Lòng thủy chung, sẵn lòng yêu mến tài năng và đức độ của người khác... không có thứ gọi là Lữ."
· Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, với những truyện đầu tiên ghi lại những gì ông nghe thấy khi ở Lạng Sơn. Được sự khuyến khích của Vũ Đình Liên, Thế Lữ đã gửi các tác phẩm đầu tay của mình cho Nhà xuất bản Tân Dân, ký thêm bút danh tưởng tượng "Đào Thị Tô cùng viết với Thế Lữ" nhằm thu hút sự chú ý. Hai cuốn Một truyện báo thù ghê gớm và Tiếng hú hồn của mụ Ké sau được Vũ Đình Long khen ngợi và cho in ra, điều này cũng đã khuyến khích Thế Lữ rời bỏ trường Mỹ thuật. Một nguyên nhân khác nữa bởi ông bị lao, tuy nhiên sau đó được chữa khỏi bệnh. Từ bỏ con đường hội họa, Thế Lữ bước hẳn sang hoạt động sáng tác văn chương.
Hoạt động văn học và Tự Lực văn đoàn
· Trước khi về Hải Phòng, Thế Lữ làm biên tập viên báo in cho tờ Volonté Indochinoise (Di chúc Đông Dương), ông thường ra làm việc ở Thảo cầm viên Hà Nội, trong thời gian này ông đã viết bài thơ Nhớ rừng nổi tiếng. Sau khi về Hải Phòng, mẹ bà dựng một căn nhà tranh cạnh Đồ Sơn để chữa bệnh. Thế Lữ bắt đầu tập trung vào viết văn và làm thơ. Một trong những bài thơ đầu tay của ông từ năm là Lời than thở của một cô gái mỹ nghệ và Chọn cây đàn piano để gửi cho bạn bè ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội. Ông cũng viết những chuyện tình như Suối Lá đăng trên nhiều báo, cũng như sách của Tân Dân. • Tháng 3 năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên ban đầu: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hưng, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, cũng là những thành viên cốt cán của Phong Hóa (mới).Thế Lữ nhất trí với quan điểm của Tự lực văn đoàn và Phong hóa: lên án tư tưởng Nho giáo phong kiến, đả kích một cách hài hước các hủ tục và tệ nạn xã hội, đồng thời giữ vững quan niệm sáng tác, giải phóng cá nhân và đấu tranh xây dựng nền văn học, canh tân văn hóa Việt Nam. Ngôn ngữ. Gần 10 năm nay, hoạt động văn chương, báo chí của Thế Lữ gắn liền với Tự Lực Văn Đoàn và cũng gần như bị thu hẹp lại trong thời gian này. Về báo chí, ông tham gia viết và biên tập tờ Phong Hóa rồi Ngày Nay (bắt đầu sau khi Phong Hóa đóng cửa năm 1936). Ông viết bài cho các chuyên mục Review, Review sách, Từ cao xuống thấp dưới các bút danh Thế Lữ, Lê Ta, Mười Ba Sướng.., (lão) rồi “Phóng sự”, “Thơ tin”, “Văn đề tin... đoản”... (Ngày nay). Ngoài những bài viết cố định, Thế Lữ còn có nhiều bài viết, bài bình luận, phân tích về các đề tài văn học nghệ thuật, điểm sách. Ông làm giám khảo ba cuộc thi Tự lực văn đoàn (1935, 1937, 1939) và bỏ phiếu xác nhận các tác phẩm đoạt giải.Mục Thơ mới do ông làm giám sát cũng phát hiện và phát huy một số khả năng mới trong thơ; Đồng thời, Thế Lữ cùng với Lưu Trọng Lư, Huy Thông và nhà thơ, tác giả khác cũng có những đóng góp to lớn cho sự thành công của phong trào Thơ mới bằng việc chống thơ cũ, bảo vệ và phát huy bài mới thông qua xuất bản. Các mặt hàng, bao gồm cả sáng tạo của riêng bạn. Bài thơ “Nhớ rừng” đã có tác động mạnh mẽ đến công chúng cùng với những bài thơ nổi tiếng khác sau này như “Tiếng sáo đa điệu”, Tiếng sáo của Thiện Thái... đăng ở Phong Hóa, sau được sưu tầm vào năm trong tập “ Bộ sưu tập đầu tiên của anh ấy về ". Tập thơ Mấy bài thơ (1935) đã góp phần làm nên thắng lợi hoàn toàn của phong trào Thơ mới và đưa ông trở thành nhà thơ tiêu biểu của Thơ mới buổi đầu.Ngoài ra, ông còn có nhiều tác phẩm văn xuôi thuộc các thể loại trinh thám, kinh dị, lãng mạn cũng thu hút sự quan tâm của công chúng. • Từ năm 1937, ông dành nhiều thời gian và sức lực cho sân khấu kịch, mặc dù ông vẫn tiếp tục làm việc cho tờ Hoy cho đến khi tờ này đóng cửa (sau năm 1940). Sau 1945, sinh hoạt và tư tưởng của Lữ hoàn toàn tách biệt với Nguyễn Tường Tam, Khải Hưng, Hoàng Đạo. Sau này, Thế Lữ đã thẳng thừng phủ nhận gần như toàn bộ đóng góp của Tự lực văn đoàn cho nền văn hóa dân tộc, và bị Phạm Đình Ân coi là tư duy cực đoan, phiến diện, nhất thời trong bối cảnh xã hội chính trị đương thời. Tuy nhiên, trong những năm cuối đời, Thế Lữ nhớ lại thời kỳ đó: “Thời đó chưa có báo Phong Hóa. Không có bạn Tự Lực ngày nay, không có bạn văn chương ngày này. Lòng thủy chung, sẵn lòng yêu mến tài năng và đức độ của người khác... không có thứ gọi là Lữ."
0 nhận xét:
Đăng nhận xét