Tế Hanh (1921-2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh , là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, quê hương chính là nguồn cảm hứng lớn nhất của Tế Hanh. Ông xuất hiện ở chặng cuối của phong trào Thơ Mới với những bài thơ mang theo nỗi buồn và tình yêu quê hương. Sau năm 1945, ông vẫn luôn tiếp tục bền bỉ sáng tác nhằm phục vụ cách mạng và kháng chiến. Ông được biết đến nhiều nhất với những bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết quê hương miền nam và niềm khao khát Tổ quốc được thống nhất.
Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921 tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn; nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Cha ông là Trần Tất Tố, làm nghề dạy học và làm thuốc. Ông có bốn anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo.
Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại trường Khải Định (tức Quốc Học Huế).
Sẵn tính ham thích thơ, lại được thi sĩ Huy Cận "chỉ vẽ", nên Tế Hanh bắt đầu sáng tác. Năm 1938, 17 tuổi, ông viết bài thơ đầu tiên: "Những ngày nghỉ học".
Sau đó, ông tiếp tục sáng tác, rồi tập hợp thành tập thơ Nghẹn ngào. Năm 1939, tập thơ này được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn.
Năm 1941, Tế Hanh và thơ của ông ("Quê hương", "Lời con đường quê", "Vu vơ", "Ao ước") được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Tháng 8 năm 1945, Tế Hanh tham gia Việt Minh, tham gia công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng; và là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
Từ năm 1949 cho đến năm 1954, ông ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V.
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ.
Năm 1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập, Tế Hanh tham gia Ban Biên tập tuần báo Văn của Hội, và nhiều năm, ông còn là Ủy viên chấp hành và Ban thường vụ của hội.
Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I.
Vào những năm 80, ông bị đau mắt và mắt ông mù dần. Từ đó ông bệnh liệt giường lúc mê lúc tỉnh. Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16 tháng 7 năm 2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não .
Các tác phẩm tiêu biểu
· Những ngày nghỉ học (1938)
· Nghẹn ngào (1939), 47 bài thơ đã rút bài thơ "Quê hương" sang tập "Hoa Niên"(1945)
· Hoa niên (1945)
· Tập thơ tìm lại (1945)
· Hoa mùa thi (1948)
· Nhân dân một lòng (1952)
· Gửi miền Bắc (1955)
· Lòng miền Nam (1956), 20 bài thơ
· Tiếng sóng (1960), 15 bài thơ
· Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960) thơ thiếu nhi
· Thơ và cuộc sống mới (1961) tập tiểu luận phê bình
· Bài thơ tháng bảy (1962)
· Những tấm bản đồ (1965) thơ thiếu nhi
· Hai nửa yêu thương (1967)
· Khúc ca mới (1967), 44 bài thơ
· Đi suốt bài ca (1970)
· Câu chuyện quê hương (1973)
· Thơ viết cho con (1974) thơ thiếu nhi
· Theo nhịp tháng ngày (1974)
· Giữa những ngày xuân (1976)
· Con đường và dòng sông (1980)
· Tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng hát (1983) thơ thiếu nhi
· Bài ca sự sống (1985)
· Tuyển tập Tế Hanh, tập I (1987)
· Thơ Tế Hanh (1989)
· Vườn xưa (1992)
· Giữa anh và em (1992)
· Em chờ anh (1993)
· Tuyển tập Tế Hanh, tập II (1997)
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Thành tựu nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật của Tế Hanh là một hồn thơ chân thật và gần gũi vì nội dung thơ gắn bó mật thiết với quê hương đất nước. Nhà thơ Tế Hanh là một trong những thi nhân thành công nhất trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng Tháng Tám, dào dạt xúc cảm về tình yêu quê hương đất nước.Nếu nhắc về những chùm thơ hay về quê hương thì những tác phẩm của nhà thơ Tế Hanh được nhiều độc giả và nhà phê bình đánh giá cao nhất. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, những tác phẩm văn ra như sự ủng hộ tinh thần đấu tranh giành lại độc lập tự do cho đất nước và dân tộc. Tế Hanh là nhà thơ miền Nam tập kết ra Bắc nên trong lòng ông vẫn đau đáu nỗi nhớ quê nhà. Chính nỗi nhớ ấy đã giúp tạo nên một cái tên nổi bật trong phong trào Thơ mới nói riêng và nền thơ văn học Việt Nam nói chung. Bài thơ “Quê hương” sáng tác năm 1939 là một trong những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của nhà thơ Tế Hanh. Bài thơ này ra đời trong hoàn cảnh tác giả đi học tại Huế, mang trong lòng mình một nỗi nhớ da diết về quê hương. Những nỗi nhớ ấy đã tạo thành nguồn cảm hứng giúp thi nhân sáng tác thơ. Thông qua những câu chữ sinh động kết hợp với những đường nét cơ bản, thi nhân đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên đầy sinh động, bắt mắt với làng quê vùng biển với những người dân lao động. Chất liệu thơ của Tế Hanh gần gũi, âm điệu khỏe khoắn, ngôn ngữ sâu lắng, giàu sức gợi tả.
· Giải thưởng văn học Tự lực văn đoàn năm 1939.
· Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng.
· Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt I năm 1996.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét