Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.
Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Cha Nguyễn Bính tên là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi. Để lại cho ông Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ ba tuổi và Nguyễn Bính mới sinh được ba tháng. Đúng như câu thơ ông viết:
“Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ.”
Mấy năm sau ông Bình cưới bà Phạm Thị Duyên làm vợ kế (bà sinh được bốn người con, hai trai hai gái).Bà cả Giần là chị ruột của mẹ Nguyễn Bính, nhà bà lại giàu có, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính và là cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, đón ba anh em Nguyễn Bính về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ thuở bé, được cậu Khiêm khen hay nên được cưng.
Ông đột ngột qua dời vào một sáng cuối năm ngày 29 Tết ( ăm ấy không có ngày 30), nhằm ngày 20/01/1966 năm Bính Ngọ.
Phong cách sáng tác
Khi nhắc đến cái tên Nguyễn Bính, người ta nghĩ ngay đến nhà thơ lãng mạn của làng quê Việt Nam. Các tác phẩm của Nguyễn Bính rất đa dạng và phong phú với khối lượng tác phẩm đồ sộ chúng ta có thể chia ra làm hai dòng đó là “lãng mạn” và “cách mạng”.
Cái tình, cái lãng mạn luôn xuất hiện trong thơ của ông. Nét đằm thắm, dung dị, thiết tha mà đậm sắc hồn dân tộc mang lại sự gần gũi với người đọc. Chính vì nét mộc mạc ấy mà thơ của ông được nhiều người đọc, được nhiều người yêu thích. Cái hồn thơ lãng mạn ấy đi vào lòng độc giả khắp các vùng miền từ nông thôn đến thành thị. Với người ở lớp bình dân họ rất yêu thích thơ của ông. Thơ hay không phải là thơ dùng ngôn ngữ đặc biệt mà bài thơ đó dễ thuộc, dễ khiến cho người ta thấy đồng cảm. Đặc trưng trong thơ Nguyễn Bính là sự giản dị, ông vận dụng thể thơ lục bát truyền thống kết hợp với những hình ảnh mộc mạc của làng quê để tạo ra những bài thơ bất hủ.
Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính viết lên cảm xúc của một người đang đơn phương một người. Tình yêu đôi khi đến với chúng ta một cách bất chợt nó khiến cho chúng ta cảm thấy rất khó để miêu tả chính xác cảm xúc đó như thế nào. Chỉ là một ánh mắt hay nụ cười của ai đó thôi cũng khiến cho chúng ta xao xuyến không thể quên, đêm về mất ngủ. Những nhung nhớ ấy được Nguyễn Bính sử dụng làm chất liệu kết tinh lên con chữ khiến cho người đọc cảm thấy rung cảm trước bài thơ rất gần gũi và thân quen ấy.
Tác phẩm
· Qua nhà (Yêu đương 1936)
· Những bóng người trên sân ga (Thơ 1937)
· Cô hái mơ (Thơ 2007)
· Tương tư
· Chân quê (Thơ 1940)
· Lỡ bước sang ngang (Thơ 1940), 34 bài
· Tâm hồn tôi (Thơ 1940), 23 bài
· Hương cố nhân (Thơ 1941)
· Hồn trinh nữ (Thơ 1958)
· Một nghìn cửa sổ (Thơ 1941)
· Sao chẳng về đây (Thơ 1941)
· Người con gái ở lầu hoa (Thơ 1942), 24 bài
· Mười hai bến nước (Thơ 1942), 12 bài
· Mây tần (Thơ 1942), 9 bài
· Bóng giai nhân (Kịch Thơ 1942)
· Truyện Tỳ Bà (Truyện Thơ 1942)
· Ông lão mài gươm (Thơ 1947)
· Chiến dịch mùa xuân (Thơ, 1949)
· Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
· Trả ta về (Thơ 1955)
· Gửi người vợ miền Nam (Thơ 1955)
· Trong bóng cờ bay (Truyện Thơ 1957)
· Nước giếng thơi (Thơ 1957)
· Tiếng trống đêm xuân (Truyện Thơ 1958)
· Tình nghĩa đôi ta (Thơ 1960)
· Cô Son (Chèo cổ 1961)
· Đêm sao sáng (Thơ 1962)
· Người lái đò sông Vỹ (Chèo 1964)
Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số bài thơ viết trong năm 1964, 1965 và 1966 chưa kịp xuất bản.
-Những bài thơ phổ nhạc
Thơ Nguyễn Bính có nhiều bài được phổ nhạc và cũng có nhiều nhạc sĩ phổ nhạc cho thơ của ông:
· Cách xa được Song Ngọc phổ nhạc
· Chân quê được Trung Đức phổ nhạc và được Song Ngọc phổ thành ca khúc Hương đồng gió nội
· Chuyện tình hoa mai được Anh Bằng phổ nhạc
· Cô hái mơ được Phạm Duy phổ nhạc
· Cô lái đò được Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc
· Gái xuân được Từ Vũ phổ nhạc
· Ghen được Trọng Khương phổ nhạc
· Hôn nhau lần cuối được Văn Phụng phổ nhạc
· Khúc hát chiều tà được Lã Văn Cường phổ nhạc
· Lỡ bước sang ngang được Song Ngọc phổ nhạc
· Một lần cuối được Văn Phụng phổ nhạc
· Mưa xuân được Huy Thục phổ nhạc
· Người hàng xóm được Anh Bằng phổ thành ca khúc Bướm Trắng
· Nhạc xuân được Đức Quỳnh phổ nhạc
· Nụ tầm xuân được Phạm Duy phổ nhạc
· Thoi tơ được Đức Quỳnh phổ nhạc
· Thời trước được Văn Phụng phổ nhạc thành bài Trăng sáng vườn chè
· Tiểu đoàn 307 được Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc
· Viếng hồn trinh nữ được Trịnh Lâm Ngân phổ thành ca khúc Hồn trinh nữ
Thành tựu nghệ thuật
· Nguyễn Bính nổi tiếng thần đồng, có tài "xuất khẩu thành thơ. Năm Tân Mùi (1931), vào dịp hội Phủ Dáy ban tổ chức có mở cuộc thi văn với chủ đề tả cảnh chọi gà, tại phủ Giáp Ba, làng Dần, xã Bảo Ngũ, Vụ Bản. Ban giám khảo là những bậc danh Nho có uy tín trong vùng. Trong kỳ thi này, Nguyễn Bính đã đoạt giải nhất
· Và lần thứ hai cũng tại cuộc thi thơ ở Phủ Dầy (thi hát Trống quân) ông cũng giành giải nhất.
· Năm 1937 đạt giải thưởng thơ của Tự lực văn đoàn.
· Năm 1944 đạt giải nhất Nam Xuyên với truyện thơ Tỳ bà truyện.
· Những năm kháng chiến chống Pháp ông cũng đạt nhiều giải thơ.
· Năm 1964 đạt giải ba Báo Văn nghệ Việt Nam.
· Năm 2000 được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
· Năm 2007 được truy tặng giải đặc biệt Nguyên Quang Diệu (Đồng Tháp).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét