Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2023

LÊ VĂN THIỆN



Lê Văn Thiện sinh năm 1928 tại Sài Gòn trong một gia đình yêu thích âm nhạc và thể thao.

Năm 1942, ông được nhạc sĩ Võ Đức Tuyết dạy hàm thụ dương cầm. Hai năm sau, ông được Trần Văn Lý dạy contrebasse, dương cầm. Từ năm 1950, ông đã được mời trình diễn tại nhiều phòng trà, ca nhạc tại Sài Gòn, tiêu biểu nhất là vũ trường Đại Nam, nơi ông chơi dương cầm chung với Đan Thọ (saxophone) và Huỳnh Anh (trống). Ngoài ra, ông còn có mặt trong ban hợp ca Thăng Long.

Năm 1960, ông bắt đầu được mời hoà âm cho băng Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh, rồi sau đó là các hãng dĩa Asia - Sóng Nhạc, Việt Nam, Continental. Hầu như băng nhạc nổi tiếng trước 1975 như Trường Sơn, Diễm Ca, Nhã Ca, Họa Mi, Sơn Ca,... đều có mời ông hoà âm. Thời gian này ông còn nhận hòa âm trong chương trình Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng trên truyền hình. Công việc cuối cùng trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 của ông là điều khiển dàn nhạc vũ trường Queen Bee của Ngọc Chánh.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông lại làm trưởng ban nhạc đoàn cải lương Kim Cương một thời gian dài. Năm 1982, ông được nữ ca sĩ Thanh Thúy bảo lãnh sang Mỹ. Tại đây ông tiếp tục sự nghiệp hoà âm, cộng tác với nhiều trung tâm phát hành băng dĩa lớn lúc đó như Làng Văn, Giáng Ngọc, Diễm Xưa,...

Ông qua đời vào hồi 7g15 ngày 1 tháng 11 năm 2009 (giờ California) tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

Đời tư

Diễn viên Thúy Ngọc

Ông kết hôn với diễn viên Thúy Ngọc (Marie Paul) - nữ tài tử trong phim Trần Thị Diễm Châu. Ngày 15 tháng 9 năm 1971, bà là nạn nhân tử vong trong vụ đánh bom tại phòng trà Tự Do, quận Nhứt, Sài Gòn bởi các thành phần đối lập chính trị.

Đời và văn của Thiện vẫn là những cảnh đời khốn khổ, bất trắc thường xuyên xảy ra trước mắt. Biết đấy, thấy đấy, nhưng không với tới được, không thoát ra khỏi. Nó cứ quấn lấy, ôm chặt từ lúc còn cắp sách tới trường cho đến những ngày hành quân liên miên, những cái chết, những trận đánh lón nhỏ và, sau này khi mãn tù trở về, là những nhác cuốc trên rẫy sắn bạc màu, chỉ thấy toàn cát trắng và đá cuội, đến mức Thiện đã chống cuốc ngậm ngùi nhìn đất, nhìn trời, nhìn những củ sắn như bộ râu ông Quan Công mà không biết “kêu ai”(*)! Cuối cùng đánh liều “ngậm ngải tìm trầm” trên vùng núi Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai… 2 năm đi “điệu” cùng với muỗi mòng, rắn rết, sốt rét rừng… cũng chẳng hề làm thay đổi cuộc sống của gia đình lên chút nào. Vẫn cứ nghèo “rớt mồng tơi”, đổi lại Thiện giàu vô cùng giàu chữ nghĩa, tích lũy thêm vốn sống, vốn dĩ đầy dẫy những nhọc nhằn, không phải chỉ riêng anh, mà còn cả những người dân sống quanh anh, một đời lam lũ…

Truyện ngắn Lê Văn Thiện có thể tạm chia hai thời kỳ rõ rệt: những truyện viết trong thời chiến tranh và truyện viết thời im tiếng súng.

Hai tập: Một cách buồn phiền và Sao không như ngày xưa, một do Văn và một do nxb Côi Sơn ấn hành đều trước năm 1975. Và những truyện ngắn ấy có thể nói đã khắc họa tiêu biểu cho bộ mặt chiến tranh VN cùng với những Ngô Thế Vinh, Y Uyên, Trang Châu, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Nguyễn Bắc Sơn… Tuy mỗi người mỗi vẻ, cách chọn đề tài và viết với phong cach khác nhau, nhưng có nét chung: Họ đều là thế hệ trẻ lên đường cầm súng để bảo vệ nền tự do cho phần đất còn lại luôn bị dòm ngó, xâu xé từ những cường quốc lắm súng đạn và thừa tiền bạc, như một trò chơi. Và những người trai trẻ bắt buộc phải lên đường, nhập cuộc trong cuộc chiến tương tàn, bẩn thỉu, đầy dẫy hệ lụy…

Mỗi nhà văn trong thời kỳ này, khắc họa chiến tranh theo cái nhìn khách quan nhất, đơn giản bởi họ là những người trong cuộc, trực tiếp sống chết với nó để nhìn thấy quá nhiều cảnh bi thương, hiểu đến tận cùng về thân phận con người, về đất nước nghèo khốn bị dày xéo tàn khốc: Anh chỉ có quyền bước tới mà không có quyền được bày tỏ ý kiến. Chỉ hành động theo lệnh mà không có quyền chọn lựa… Kết quả: tan nhà nát cửa, chết chóc, chia ly, hận thù chồng chất!

Chiến tranh thời đó (và thời nào cũng vậy), không do người dân nghèo dựng lên mà do lũ người “rửng mỡ” sắp đặt. Và Thiện phải cầm súng như bao thanh niên khác. Suốt tuổi thanh xuân, Thiện sống trong đạn bom, cái chết đủ kiểu cho nên anh không thể viết theo phong cách Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng và những nhà văn “máy lạnh” khác. Cõi văn chương của Thiện là lằn ranh giữa sống và chết, là tiếng súng bắn tỉa, những đợt hành quân, những trận tấn công, giải vây, tháo chạy, cảnh lộn xộn, nhếch nhác nơi miền quê nghèo… Cho nên mỗi khi đọc truyện Thiện điều đập vào mắt, trí não tôi, trước tiên không phải là nội dung mà là những dấu phảy, dấu chấm, chấm phảy, ba chấm, hai chấm… Cứ một chữ có dấu phảy, hai chữ buông dấu chấm. Chỉ một đoạn văn ngắn thôi đã kín đặc các dấu câu, khiến tôi phải tự đặt câu hỏi: Phải chăng nhà văn bị ám ảnh bởi những loạt đạn dài ngắn, bỡi cuộc đời “lên bờ xuống ruộng” của mình, của những người dân nghèo, bởi cảnh sống “chụp giựt” nơi phố phường và cảnh đời khốn khổ nơi miền quê Thiện sống, mà có lần vui miệng kêu : “…bằng lòng sống trong cái ao làng này” và thêm, rõ hơn trong một bài viết ngắn về Trần Hoài Thư: “Ở đây, tôi làm nông, gắn bó với ruộng đồng, ổn định. Tôi không than van, oán trách (Oán trách ai đây, trời chăng?). Than thở vô ích, nó chỉ làm suy nhược con người. Điều quan trọng (và kỳ quặc): tôi luôn nghĩ mình may mắn. Còn sống sau 7 năm đi đánh nhau, 33 năm vật lộn với áo cơm là may mắn… Tôi nằm trong cái ao làng. Tôi ngao du, ca hát, bơi lội thỏa thích ở đó. Đúng hên”. Có lẽ “hên” do không chết thảm ngoài chiến trường, trong nhà tù và may mắn hơn là chưa chết khi phải vật lộn suốt từng ấy năm trời trên mảnh đất khô cằn, nghèo khó! Thiện không chết và chưa chết. Nhưng quanh anh, những người bạn, những chiến hữu của anh, bà con, đồng bào anh thì ngã vật ra chỉ sau một loạt đạn từ phía bên kia. Anh nhìn thấy tận mắt, chỉ cách mấy bước chân, nhưng bất lực nhìn bạn ngã gục một cách đau đớn, tủi nhục: “Thới thả cây súng xuống đất. Người đứng sau lưng kêu “trời”. Anh ta quăng một trái khói. Khói tỏa xanh đặc một khoảng, che khuất Khắc, cái thùng rác và phần dưới cái cây bên đường. Chúng nó lại bắn vào đám khói. Khắc được lôi vào, chỉ còn là cái xác. Nhưng cái xác đã bị thêm hai viên đạn nữa. Trên lưng Khắc đóng rõ ba lỗ máu. Người can đảm trừng trừng nhìn xác bạn, rồi tự vuốt mặt mình” (Trong lớp khói mầu).



0 nhận xét:

Đăng nhận xét