Thứ Ba, 23 tháng 5, 2023

TRẦN DẠ TỪ


Trần Dạ Từ sinh năm 1940, tên thật là Lê Hạ Vĩnh, sinh ra tại Hải Dương, miền Bắc Việt Nam. Ông là chồng của nhà văn, nhà thơ Nhã Ca (Trần Thị Thu Vân). Ông di cư vào Nam năm 1954 khi đất nước bắt đầu chia cắt, định cư tại Sài Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió mới. Năm 1963 ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng chính kiến.

Sau ngày 30/4/1975 vợ chồng Trần Dạ Từ bị chính quyền bắt giữ vì bị xem là “biệt kích văn hoá”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988. Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là Hòn đá làm ra lửa. Năm 1989, dưới sự bảo trợ đặc biệt của chính phủ Thuỵ Ðiển, gia đình ông được sang Thuỵ Điển sinh sống, đến năm 1992 sang quận Cam, miền Nam bang California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt báo.

Tác phẩm:

- Thuở làm thơ yêu em (Sài Gòn, 1960)

- Tỏ tình trong đêm (Sài Gòn, 1965)

- Nụ cười trăm năm (chưa xuất bản)

Thơ Trần Dạ Từ là tình yêu thời mới lớn, say đắm vụng về, và tình yêu của người đứng tuổi, trải qua hoạn nạn, tù đầy. Đó là tiếng thơ giàu vần điệu, không có nhiều khai phá về ngôn ngữ; tuy vậy khả năng đào sâu của tác giả vào các đề tài tưởng như đã rất cũ, từ đó mở ra những ngã rẽ cảm xúc làm người đọc bất ngờ. Trong thơ Trần Dạ Từ có một nỗi buồn rầu, phiền muộn, như khái niệm blue của người Mỹ, mặc dù thế, thơ ấy không tuyệt vọng, than thở, bi lụy. Ngôn ngữ bám rễ vào đời sống thành thị, dân nghèo, tầng lớp cơ cực. Sự dằn vặt, lối nghĩ ngợi, phân vân, là tiêu biểu cho những người trẻ tuổi trong một xã hội tự do và lo âu, chứa mầm loạn lạc từ bên trong hoặc bên ngoài. Thơ ông như lời độc thoại có kịch tính, lời nói không hướng tới người đọc mà hướng tới một nhân vật nào khác, có mặt trong bài thơ hoặc ngoài bài thơ, đứng đâu đó trước mặt chúng ta. Ngôn ngữ ấy tìm cách ghi lại ký ức, phản ánh đời sống cùng thời, đời sống trí thức không chịu thỏa hiệp.

Chuồng gà đã bỏ không từ lâu

Chả còn tiếng gì giục giã nữa

Trong các góc phòng và cánh cửa

Bóng tối đập đôi cánh vùng vằng

Thơ ca dạy ta cách vượt qua biên giới giữa bóng tối và ngày mới, giữa căm phẫn và thương xót, cách đi qua sự trống rỗng vô nghĩa của tồn tại, truy tìm những thực tại mới hay ý nghĩa của những thực tại ấy. Thơ Trần Dạ Từ, mặt khác, ca ngợi tình yêu, niềm vui vỡ òa lồng ngực của tuổi trẻ; có bài được phổ thành ca khúc nổi tiếng. Trong giai đoạn sớm, tính chất yêu đời và hồn nhiên của ông vẫn nổi bật hơn cả.

Tỉnh dậy dưới chân đồi

Ruộng ngô ai ngào ngạt

Chạy khắp ruộng tìm coi

Nào ngờ em trốn mất

­Được nén lại trong kích thước năm chữ, nhiều khổ thơ, “Mùa Ngô Cũ” là một trong những bài thơ trong sáng, dễ đọc. Trần Dạ Từ cũng có nhiều bài thơ tình khác, cùng thời, đôi khi ngôn ngữ khá cũ kỹ, rõ ràng do ông chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của thơ tiền chiến. Khi vượt qua được ảnh hưởng ấy, ông có những bài thành công hơn hẳn.

Rất sớm, tình yêu từ thời niên thiếu đã pha đậm tình dục, mạnh mẽ, cảm xúc, gần như điên rồ, trong bài thơ lục bát ngắn:

Biết yêu người thủa mười lăm

Trong vườn ngây dại ta nằm sót sa

Cỏ cây ồ ạt ra hoa

Chùm môi bông phượng la đà tới lui

Khi không da thịt cả cười

Cùng ta trộn lẫn đất trời với em

(Buổi Hẹn Đầu, toàn bài)

Thể xác ấy không chỉ ao ước tình nhân mà còn muốn ôm lấy cả đất trời, cùng bao thèm muốn khác. Da thịt tự cười, vì muốn xé toang giới hạn của chúng. Như thế là ông đã dùng cỏ cây để mô tả một thứ tình yêu ướt đẫm thể xác trước hay cùng thời với Bùi Giáng: cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao.

Tuy đã làm chủ các loại thơ vần điệu, nhưng thực ra chỉ ở thể tự do, thơ Trần Dạ Từ mới hoàn toàn sảng khoái, phóng túng, rào rạt.

Anh sẽ về, câu chuyện mùa thanh trà

Dăm ba nỗi đớn đau đôi chút niềm hối tiếc

Là tình yêu chúng ta

Hai trái tim nhỏ nhoi

Gom lại báo động thế kỷ này

Những đất đai chia cắt

Công phẫn ngực, nghẹn ngào hơi

Chờ chóng mặt

Là tình yêu chúng ta

Hai nỗi bi thương cộng một

Tiếng kêu tổ quốc này

Đòi mở mắt

Hai niềm tin hèn mọn những lòng tin chất ngất

Bài hát ấy nhắc anh thời có em

(Thơ Tình Năm Tám)

Trần Dạ Từ làm thơ từ thời trẻ, khoảng những năm 1950, nhưng bút hiệu ấy chỉ xuất hiện cùng với những bài thơ tình đầu tiên từ năm 1957 trên bán nguyệt san Gió Mới do Nguyên Sa chủ bút, và từ năm 1958 trên tạp chí Sáng Tạo, Mai Thảo chủ biên. Sinh tại miền Bắc, Trần Dạ Từ là nhà thơ miền Nam thời chiến tranh hai mươi năm. Nửa đầu của những năm sáu mươi, thời kỳ miền Nam biến động, với chiến tranh lan rộng, cũng là lúc thơ ông thực sự đổi khác. Đó là thơ tuổi của hai mươi chấn động và nhập cuộc, không chỉ trên trang giấy mà còn trong đám đông. Những bài thời kỳ này tới sau nhưng được tập hợp in thành sách trước, trong tập “Tỏ Tình Trong Đêm“, xuất bản 1965. Sách sau đó bị tịch thu vì tính chất phản chiến. Thơ của tuổi trẻ chiến tranh và bụi bặm thành phố.

Khi buổi chiều rụng xuống lũ cột đèn đứng lên

Con phố này nỗi đau buồn bật sáng

Lời hát ru an lành từ nguồn cội nay bị đẩy sâu vào tình huống hoang tàn tang tóc của cuộc chiến:

Ru con mượn bóng thay người

Mượn bia làm gối mượn trời làm chăn

Mượn giông mượn bão làm màn

Mượn cây làm quạt mượn tàn làm hiên

Mượn sao làm mắt mẹ hiền

Mượn nơi chiến trận làm miền rong chơi

Mượn xương máu bọc nụ cười

Mượn cơn bom đạn làm lời ru con

(Bài Ru Mới, toàn bài) Riêng những bài thơ tình đầu tiên, tuy tới sớm hơn, từ những năm 1950, nhưng mãi tới 1971 mới được in thành sách, trong tập “Thuở Làm Thơ Yêu Em“(2). Thuở là một khoảng thời gian rộng, nhiều ngày hay nhiều năm, thay đổi tùy mỗi người, tùy ký ức, vì thuở là nhớ lại. Thuở làm thơ là một lịch sử, một chương của lịch sử nối vào những chương khác. Đó là không gian bạn đã sống, thời gian bạn đã yêu, thở, chết, sống lại. Một khúc quanh, một dòng sông, một cây cầu gẫy, bạn ngắm nhìn, đặt tay lên, và bạn lắng nghe: tiếng rì rầm tàu chạy.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét