Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

PHAN HUYỀN THƯ

Tiểu sử

Phan Huyền Thư là con gái đầu lòng của nhạc sĩ Phan Lạc Hoa và NSND Thanh Hoa. Vốn là con nhà nòi, năm 7 tuổi Phan Huyền Thư đã bắt đầu học piano, 8 tuổi học thêm violon và ghi ta. Cô từng tốt nghiệp Học viện âm nhạc quốc gia và hợp tác với rất nhiều nhạc sĩ để viết giao hưởng.

Trước khi theo học ĐH Tổng hợp Văn, Phan Huyền Thư từng có ý định trở thành ca sĩ bằng việc đi hát solo ở các phòng trà, quán bar. Nhưng sau đó, cô chuyển sang viết truyện ngắn, làm thơ. Dù ở lĩnh vực nghệ thuật nào, Phan Huyền Thư đều được đánh giá là con người cá tính, sáng tạo.

Sau một thời gian làm việc ở Tạp chí Thế giới Điện ảnh, Phan Huyền Thư được mời về đầu quân cho Hãng phim Tài liệu Khoa học Trung ương với tư cách là một biên kịch. Dần dần, cô được biết đến với tư cách đạo diễn đứng sau những bộ phim tài liệu thành công.

Phan Huyền Thư được đông đảo khán giả cả nước biết đến khi xuất hiện trên sóng truyền hình với tư cách là 1 trong 3 vị giám khảo của Sao Mai điểm hẹn 2012.

Làm nghệ thuật là phải có cái gì đó riêng của mình. Thư có thể và đủ khả năng để thành một ca sĩ chuyên nghiệp, nhưng chưa chắc đã tạo được dấu ấn riêng trong âm nhạc như cha mẹ chị đã làm thành công. Phải sống dưới bóng của những người nổi tiếng nhiều khi là một sự đầy ải. Thời thanh niên, ngang tàng và đôi khi ngỗ nghịch, Thư không muốn nghe những câu nói đại loại như: con nhà nòi thì hát hay là chuyện đương nhiên hoặc theo chiều ngược lại, con nhà nòi mà hát dở thế. Trái tim nghệ sĩ thường nhạy cảm. Vậy nên, dù rất nuối tiếc, Thư cũng quyết tâm rời xa chiếc micro.

Không theo nghiệp cầm ca, nhưng Thư cũng chẳng thể sống một cuộc đời bình lặng như những người khác, dẫu đôi khi, đó là cả một mơ ước. Thư khởi nghiệp chữ nghĩa, chọn câu từ làm bè bạn, chọn ý tưởng làm tri kỷ. Học Tổng hợp Văn như một sự khẳng định với gia đình cũng như người quen rằng, Phan Huyền Thư là một cá tính sáng tạo. Thư viết truyện ngắn. Đầu tiên, chị học theo lối của những nhà văn lớp trước mà chị ngưỡng mộ, như Phạm Thị Hoài chẳng hạn. Thư thích lối viết trần trụi, gai góc của Phạm Thị Hoài, một số truyện ngắn của chị cũng được viết theo phong cách đó.

Nhưng Thư chỉ thật sự lột xác khi chị đến với thơ. Sự lãng mạn, khả năng cảm thụ âm nhạc, học vấn cũng như sự nổi loạn trong sáng tác đã khiến Phan Huyền Thư thành một trong những nhà thơ gây ảnh hưởng lớn đến độc giả. Chị không đoạn tuyệt với thi ca truyền thống, nhưng chị muốn thơ không còn phải lệ thuộc vào niêm luật, về quy tắc như trước nữa. Thơ, với chị, còn phải góp phần giải phóng năng lượng của con người. Không phải chị không đủ tài để sáng tác những câu thơ đèm đẹp, những khổ thơ du dương êm đềm, bởi như vậy, thơ cũng không khác nhiều so với văn xuôi, chỉ khác ở mỗi vần điệu. Nhịp điệu của thơ chính là nhịp điệu của trái tim, của cảm giác.

Cũng chính vì thế, Thư phải hứng chịu nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí gay gắt và còn hơn thế nữa. Nhiều người lên án chị, cho rằng chị và những nhà thơ cùng thế hệ đang làm hỏng tiếng Việt, làm hỏng thơ Việt truyền thống. Nhiều lúc, Thư chỉ muốn gào thét để xả nỗi uất ức trong lòng. Tại sao mọi người không nhìn bao dung hơn, không để cho thế hệ nối tiếp được tìm tòi, được thể nghiệm. Còn được hay không, xuất sắc hay không, lung linh hay không, thời gian sẽ là người kiểm chứng tốt nhất cơ mà.

Những lúc như vậy, Thư không tránh khỏi trầm uất, mặc dù chị đã cố tập cho mình một khả năng bình tĩnh trước mọi thị phi vốn không xa lạ gì với chị và những người thân trong gia đình. May mắn cho chị là ở bên cạnh chị có người bạn trăm năm của mình.

Phan Huyền Thư và nghi án đạo thơ

Vào đầu tháng 10/2015, tập thơ Sẹo độc lập của Phan Huyền Thư được đoạt Giải thưởng Văn học 2015 của Hội Nhà văn Hà Nội cho hạng mục Thơ. Tuy nhiên một thời gian ngắn sau khi nhận giải, 2 trong số các tác phẩm của Sẹo độc lập bị tố là đạo thơ.

Tác phẩm Có lẽ đã chết vẫn tốt hơn được cho là bài thơ phái sinh từ Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển của Du Tử Lê. Trước ý kiến bị nghi đạo thơ, Phan Huyền Thư bình tĩnh trả lời "Nếu tôi đạo thơ của Du Tử Lê, thì người đầu tiên các bạn nên hỏi là chú ấy, chứ sao lại là tôi... Tôi không muốn lên tiếng, hãy để cho độc giả đưa ra nhận xét".



Vài ngày sau đó, một tác giả khác là Phan Ngọc Thường Đoan đã lên tiếng bài thơ Bạch lộ nằm trong tập Sẹo độc lập của Phan Huyền Thư giống với nhiều câu trong bài Buổi sáng của bà sáng tác từ năm 2000.

Trước những ý kiến trái chiều của dư luận về tác phẩm của mình, sáng ngày 20/10, Phan Huyền Thư đã gửi đơn đến Ban chấp hành Hội nhà văn Hà Nội với nội dung xin trả lại giải thưởng. Chiều cùng ngày, Hội nhà văn Hà Nội ra quyết định thu hồi giải thưởng trên cơ sở những phát hiện mới nhất về việc nghi đạo một số bài thơ của Phan Huyền Thư.

Mặc dù xin trả lại giải nhưng Phan Huyền Thư vẫn khẳng định với BCH Hội Nhà văn Hà Nội rằng bài Bạch lộ được viết từ năm 1996 với tên ban đầu là Độc ẩm, rồi gửi cho một số tạp chí ở Mỹ.


NGUYỄN HUY THIỆP

Tiểu sử

Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thái Nguyên, quê ở huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc.

Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, thôn Khương Hạ, xã Khương Đình, huyện Thanh Trì (nay là phường Khương Đình, quận Thanh Xuân), Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và, theo ông, bị đưa về làng dạy học tại Tây Bắc Bộ đến năm 1980, vì bố ông có làm việc với Pháp cho nên lý lịch ông bị xếp vào loại "không sạch". Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi rời cơ quan nhà nước vào năm 1992.

Đến với văần ônn học từ khá sớm, như có tự bạch: "tôi đọc sách từ năm 10 tuổi", viết những truyện ngắn đầu tiên cũng khá sớm (một số truyện ngắn trong Những ngọn gió Hua Tát viết năm 21 tuổi), nhưng Nguyễn Huy Thiệp chỉ vụt sáng từ những truyện in trên báo Văn Nghệ năm 1986, khi đã 36 tuổi. Rồi chỉ một năm sau đó, năm 1987 với Tướng về hưu, ông đã có một vị trí xác lập trên văn đàn Việt Nam.

Ông qua đời ngày 20 tháng 3 năm 2021 tại nhà riêng ở phố Bùi Xương Trạch, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Sự nghiệp

Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ năm 1986. Năm 1996, Tiểu Long Nữ, "tiểu thuyết đầu tay", là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông được chính thức xuất bản bởi Nhà xuất bản Công an nhân dân.

Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, để lại sức ảnh hưởng và dấu ấn lâu dài trên văn đàn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, tiểu luận văn chương, kịch... nhưng đặc sắc nhất là truyện ngắn. Truyện ngắn của ông có cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ, cách triển khai riêng biệt, ảnh hưởng đến nhiều cây bút trẻ; chỉ thoáng đọc đã nhận ra ngay "chất Nguyễn Huy Thiệp đặc sệt" trong sáng tác của họ. Đó là những câu văn ngắn, tốc độ nhanh, ngữ pháp đơn giản nhưng sắc lẹm, nhiều ẩn dụ, có lúc thật tinh khôi, có lúc thật ám ảnh, ma mị. Nhiều nhà phê bình gọi đó là lối văn tự sự mang xu hướng tự thuật, cô đọng, ngắn gọn, gọi thẳng tên sự việc hiện tượng, rất ít dùng phương pháp uyển ngữ.

Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở trường của ông là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động.

Một trong những mảng đề tài đặc sắc nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là nông thôn, với Chảy đi sông ơi (1985), Những bài học nông thôn (1988), Thương nhớ đồng quê (1992, đã dựng thành phim năm 1995), Chăn trâu cắt cỏ (1996), Chú Hoạt tôi (2001)... Mảng đề tài thứ hai là về miền rừng núi, mang dấu ấn 10 năm ông dạy học ở Tây Bắc.

Ngoài ra ông còn viết kịch, thơ (chưa xuất bản tập thơ nào, nhưng xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông) và tiểu luận phê bình đăng trên nhiều báo, tạp chí trong nước. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài.

Năm 2004, bài viết "Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn" của ông, đăng trên Tạp chí Ngày nay, tạo ra những tranh luận sôi nổi trong giới văn chương một thời gian dài trên báo Văn nghệ và một số trang mạng tại Việt Nam.

Tác phẩm

Muối của rừng, Nàng Sinh, Cô Mỵ (tháng 5/1986, 3 truyện ngắn được xuất bản đầu tiên), Tuần báo Văn Nghệ

Vết trượt (9/1986), Tuần báo Văn Nghệ

Tướng về hưu (6/1987, đã được dựng thành phim cùng tên năm 1988)

Những ngọn gió Hua Tát, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1989.

Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, Nhà xuất bản Trẻ, Huế, 1989.

Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, tác giả: Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến, Tạ Ngọc Liễn, Thùy Sương, Đỗ Văn Khang, Nhà xuất bản Trẻ, 1990.

Tác phẩm và dư luận tái bản, Nhà xuất bản Hồng Lĩnh, California, 1991.

Thương nhớ đồng quê (1992, đã được dựng thành phim cùng tên năm 1995)

Con gái thủy thần, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1993.

Xuân Hồng, Nhà xuất bản Tân Thư, California, 1994.

Như những ngọn gió (tuyển tập), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995.

Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.

Tiểu Long Nữ (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1996.

Thương cả cho đời bạc, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.

Mưa Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 2001.

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 2001.

Suối nhỏ êm dịu (kịch), Báo Văn nghệ, California, 2001.

Tuổi hai mươi yêu dấu (tiểu thuyết), Nhà xuất bản E’ditions de l’Aube, 2002. Sách vốn hoàn thành vào tháng 1/2003, đã được dịch ra tiếng Pháp và xuất bản từ năm 2005, cũng như được phát hành ở nhiều nước như Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Canada. Vì ngôn ngữ nhạy cảm, cuốn tiểu thuyết phải chờ đợi 15 năm trước khi phát hành trong nước vào năm 2018

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Trẻ, 2003.

Tuyển tập kịch Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Trẻ, 2003.

Giăng lưới bắt chim, Đông A, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.

Gạ tình lấy điểm (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2007.

Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết (tập truyện ngắn), Nhà xuất bản Đa Nguyên.

Mổ nhà văn (kịch, bút danh Thích Thiện Ngân), trang mạng Talawas.

Giải thưởng

Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội cho tiểu luận văn chương Giăng lưới bắt chim (2006)

Huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp (2007)

Giải Nonino Risit d’Âur (2008) (giải thưởng Premio Nonino, Italy)

Đầu năm 2021, trước khi mất, Nguyễn Huy Thiệp được Hội Nhà văn Việt Nam đề cử xét tặng Giải thưởng Nhà nước trong lĩnh vực Văn học nghệ thuật 2021. Hai tác phẩm được đề nghị xét giải của ông là truyện ngắn Tướng về hưu và Những ngọn gió Hua Tát.Tháng 12 năm 2022, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ký 4 quyết định tặng, truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước cho 128 tác giả, đồng tác giả. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được truy tặng Giải thưởng Nhà nước cùng 111 tác giả, đồng tác giả khác.

Giải thưởng thành tựu văn học trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội truy tặng cho cố nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và các tác phẩm của ông.




BÙI HẠNH CẨN


Tiểu sử

Bùi Hạnh Cẩn sinh ngày 16 tháng 5 năm 1919 tại thôn Vân Tập, xã Minh Tân, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình Nho giáo. Cha ông là nhà nho Bùi Trình Khiêm (1880 - 1951), Đại biểu Quốc hội khoá I của Việt Nam. Ông có một người con gái là PGS.TS. Bùi Thị An, Đại biểu quốc hội Việt Nam khoá XIII.

Bùi Hạnh Cẩn qua đời ngày 4 tháng 2 năm 2020, hưởng thọ 100 tuổi.

Từ ông đồ đến nhà báo

Khoảng năm 1938-1939, Bùi Hạnh Cẩn lên Hà Nội, ban đầu ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ, cùng với Nguyễn Hồng Nghi (về sau là đạo diễn, nghệ sĩ nhiếp ảnh), Nguyễn Trinh Cơ (giáo sư, bác sĩ), mang bảng, phấn đến các chợ, bến xe, những nơi có đông người để dạy học. Ông còn cùng với Nguyễn Hồng Nghi tổ chức diễn kịch của Nguyễn Bính để lấy tiền ủng hộ quỹ Hội Truyền bá Quốc ngữ.

Từ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ông đã từng viết cho nhiều tờ báo nên có dịp tiếp xúc với các luồng tư tưởng tiến bộ đương thời. Bùi Hạnh Cẩn bắt đầu viết báo, những bài đầu tiên của ông xuất hiện trên các tờ Ngọ báo, Đông Pháp, Tin tức, Tiểu thuyết thứ Năm, Đàn bà... Các bài báo của ông thời kì này chủ yếu bàn về các vấn đề văn hóa, văn học nghệ thuật. Bùi Hạnh Cẩn là người thích cái mới, ghét sự rập khuôn, chính vì vậy mà ông viết cho những tờ báo có nhiều cách tân về nội dung cũng như hình thức như Ngày nay (của nhóm Tự lực văn đoàn), Tiểu thuyết thứ năm… Thần tượng của ông là những nhà văn, nhà báo luôn đề cao sự sáng tạo, mở đường cho những trào lưu văn hoá, văn học, ngôn ngữ như Phạm Duy Tốn, Dương Bá Trạc, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học... Đặc biệt, Bùi Hạnh Cẩn rất ủng hộ sự hiện đại hóa ngôn ngữ báo chí của Hoàng Tích Chu.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Bùi Hạnh Cẩn về công tác tại Nam Định, ông được cử làm Kiểm soát viên tài liệu của Ty Bình dân học vụ tỉnh Nam Định, có nhiệm vụ chuyển tài liệu cho mọi người đọc, học và nghiên cứu. Tại quê nhà, ông đã tham gia viết tờ Nam Định kháng chiến, do nhà báo Chu Hà (Lã Xuân Choát) phụ trách chung về kĩ thuật, ngoài ra có Sao Mai (Tân Khải Minh) và một vài người khác. Nam Định kháng chiến và tờ báo Tia sáng (Étincelle in bằng tiếng Pháp, do Hữu Ngọc phụ trách) toả đi khắp các xã, huyện, đưa vào thành phố, phát đến tận tay lính lê dương, làm tốt nhiệm vụ thông tin và địch vận.

Khi vai trò của tờ Nam Định kháng chiến không còn phù hợp với tình hình mới, Báo Công dân ra đời. Báo do Chu Hà làm Thư ký tòa soạn, Trúc Đường (Nguyễn Mạnh Phác), Sao Mai, Bùi Hạnh Cẩn lại tiếp tục làm cho Báo Công dân, sau bổ sung thêm Trần Lê Văn, Lộng Chương… Cũng như phần lớn những nhà báo kháng chiến lúc đó, Bùi Hạnh Cẩn thể hiện sự linh hoạt trong việc sử dụng ngòi bút của mình. Lúc ông viết truyện ngắn, kịch, làm thơ trữ tình, khi ông làm thơ trào phúng, kí, phóng sự, thậm chí đưa cả những tin chiến sự ngắn. Ông phụ trách mục "Trên đe dưới búa" với lối viết giản dị theo thể văn vần được bạn đọc rất hoan nghênh. Từ đó, hình thức này được nhiều nhà báo cách mạng thời bấy giờ vận dụng.

Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Bùi Hạnh Cẩn lên thủ đô tiếp tục tham gia công tác báo chí. Đầu tiên là tờ Thủ đô (nay là báo Hà Nội mới) mà gần như ông phải quán xuyến hết phần nội dung của báo. Ông từng giữ cương vị là Quyền Tổng biên tập báo Thủ đô Hà Nội, Ủy viên thường trực, Chánh văn phòng Hội Nhà báo Việt Nam.

Các tác phẩm báo chí của ông gắn với các bút danh Thôn Vân, Hạnh, Lê Xung Kích… đã là hiện thân của sự gắn bó thẳm sâu của ông với quê hương, đất nước và sự tài hoa, trách nhiệm công dân của nhà báo với hơn 70 năm cầm bút. Dù ở vị trí nào - phóng viên, biên tập viên, cán bộ quản lí, ông đều chất phác, dễ gần, năng nổ, xông xáo.

Về già, Bùi Hạnh Cẩn có thêm một thú vui sáng tác mới là tranh chữ. Tranh của ông được nhiều người đánh giá là sáng tạo, nhưng cũng không thiếu người đánh giá là thô tục, "loạn chữ thánh hiền".

“ Ở đời phải nghĩ ra phương pháp, phải nghĩ ra biện pháp. Không chỉ đổi mới riêng hình thức mà muốn đổi mới cả tư duy. Nếu không có nội dung mới thì không thể tìm được hình thức mới. Phải có tư duy mới, phải có nội dung mới. ”

Tranh chữ của Bùi Hạnh Cẩn sử dụng hai loại chữ viết tiếng Việt là chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, cùng với chữ Quốc tế ngữ.

“ Chữ ở đây khác với chữ ở đình chùa, mặc dù chữ ở trong đình chùa là rất quý. Và chính vì thế tôi gọi là tranh chữ. Tôi không gọi là thư pháp, cũng chẳng phải thư họa, tôi có thư họa đâu. Ví dụ chữ Tương tư kia thì tôi vẽ, tôi viết đâu. Tôi cách điệu hóa chữ Tương tư như bóng hai người xa xa và tôi cách điệu hóa chữ Tư thành ra một người đứng trông ngóng những cảnh hai người đi ở xa xôi. Rồi tôi lại dùng chữ Tương tư bằng Quốc ngữ như cỏ rối. Dưới chữ Tư không có bàn chân. Chữ Tương tư ấy cũng như cỏ rối trên đường đi rối bời dưới chân. Tất nhiên có thể đưa lên đầu thì bối rối ở đầu, để vào tim thì bối rối ở tim phải không nào?

Nhưng người xem thì khẳng định đấy là tranh chứ không phải là chữ. Tranh đấy xuất phát từ chữ. Và chữ là tranh. Người ta hỏi tôi: Tranh chữ ông định dịch ra chữ Hán là gì? Tôi cũng nghĩ lấn bấn mãi nhưng sau có vài người bạn bảo tôi là gọi là tự họa. Tức là chữ mà thành tranh. Hiện giờ tôi cũng thấy lý thú cái đó. ”

— Bùi Hạnh Cẩn

Các tác phẩm

Bùi Hạnh Cẩn có khoảng hơn 100 đầu sách (thơ, văn, dịch thuât) được lưu tại thư viện Quốc gia.

Hẹn

Hồ Xuân Hương, thơ chữ Hán, chữ Nôm & giai thoại (1999)

Ngõ ba nhà (tiểu thuyết, dịch)

Hai mươi nữ nhân Trung Quốc (2005)

Trí tuệ Kinh điển Trung Hoa (dịch, 2004)

Kẻ Dộc Đông Ngàn Hà Nội

Tự điển Kinh dịch phổ thông

Sử ký Tư Mã Thiên - Những điều chưa biết (dịch, 2007)

Từ vựng chữ số và số lượng (1994)

192 Bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1994)

Thành ngữ, Tục ngữ Việt Nam (2004)

Tinh hoa văn hoá dưỡng sinh (1991)

Thăng Long Thi Văn tuyển (dịch, 2006)

Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương Cống Việt Nam (2002)

Năm đời Tổng Mỹ (truyện,1973)

Ký sự lên Kinh (sưu tầm, dịch thơ văn Hải Thượng Lãn Ông, 1973)

Lê Quý Đôn (truyện ký, 1984)

Bà Điểm họ Đoàn (nghiên cứu, 1987)

Chinh phu ngâm của Hông Liệt Bá (dịch)

Tục ngữ cách ngôn thế giới (1987)

Chợ Viềng Hội Phủ (sưu tầm khảo cứu, 1983)

Nguyễn Bính và tôi (hồi ký, 1994)

Tổng tập thơ chữ Hán Nguyễn Du (dịch, 1996)

Tổng tập thơ phú Nôm của Nguyễn huy Lượng (dịch, 1996)

Tranh chữ (2010).


NGUYỄN BÍNH

Tiểu sử

· Nguyễn Bính sinh ngày 13 tháng 2 năm 1918, tức mồng 3 tết, tên thật là Nguyễn Trọng Bính, ở làng Trám, làng Thiện Vinh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản. Tỉnh Nam Định.

· Cha của Nguyễn Bính tên là Nguyễn Đạo Bình làm nghề giáo, mẹ là Bùi Thị Miện con gái một gia đình giàu có. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.

· Cô Miện bị rắn độc cắn chết năm 1918, khi mới 24 tuổi. Bà để lại cho Bính ba đứa con thơ, lúc đó Nguyễn Mạnh Phác sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thu ba tuổi và Nguyễn Bính mới ba tháng.Đúng như câu ca dao của ông:

Còn tôi sống sót là may

Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ

· Mấy năm sau, ông Bình lấy bà Duyên làm mẹ kế (bà sinh được bốn người con, hai trai, hai gái). Bà Giản là cô ruột của mẹ Nguyễn Bính. Gia đình giàu có nên bà và ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính, cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn. Nguyễn Bính làm thơ từ nhỏ, được thầy Khiêm khen nên mê.

· Năm 13 tuổi, Nguyễn Bính đoạt giải nhất trong cuộc thi Tiếng trống quân mùa xuân ở Hội làng với sáng tác:

...Anh đố em này:

Làng ta chưa vợ mấy người ?

Chưa chồng mấy ả, em thời biết không

Đố ai đi khắp tây đông,

Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?

Làm sao như rượu mới say,

Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ?

Làm sao như vợ như chồng ?

Làm sao cho thỏa má hồng răng đen

Làm sao cho tỏ hơi đèn ?

Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?

Làm sao ? anh khen em tài ?

Làm sao ? em đáp một lời làm sao... ?

· Trúc Đường đậu (Diplome d'Étude Primaire Supérieus Franco-Indigène) hạng xuất sắc ở Hà Nội, được nhận làm giáo viên tại một trường tư ở Hà Đông, bắt đầu viết văn và làm thơ. Nguyễn Bính ở với ông và Trúc Đường dạy ông văn học Pháp. Từ đó, Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả trong văn lẫn ngoài đời.

· Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo một người bạn, học ở thôn Vân lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học, có lẽ những vần thơ như:

Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh

Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm

Da trời ai nhuộm mà lam

Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai

Là được Nguyễn Bính viết trong thời gian này.

· Bài thơ Cô chọn một giấc mơ đã được đăng lần đầu trên báo. Năm 1937, Bài thơ Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính gửi dự thi sau khi đoạt giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Nghệ sĩ Nguyệt Hồ nhớ lại: Tôi biết Nguyễn Bính từ khi anh chưa nổi tiếng, ngày nào tôi cũng ôm tập thơ làm quen với các tòa soạn báo. Tôi thích thơ anh và giới thiệu anh với Lê Tràng Kiều, tổng biên tập tiểu thuyết thứ năm, người đã xuất bản Cô hái mơ, bài thơ đầu tiên của anh đăng trên báo năm . Tôi khuyên anh gửi thơ và anh được giải Tự Lực Văn Đoàn.. Chúng tôi thân nhau từ khoảng 1936 đến 1940, đoạn đầu đời ông,… Từ 1940 Nguyễn Bính nổi tiếng với một loạt thơ khá dày về nhiều đề tài, phần lớn là thơ tình. Cùng năm, Trúc Đường ra Hà Nội viết truyện dài Người đẹp, Nguyễn Bính tỏ ý muốn vào Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Dương đồng ý nhưng không có tiền, đưa máy ảnh cho Nguyên Bình rồi về quê bán chiếc thềm đá xanh (báu vật duy nhất trong gia đình) lấy hết tiền cho Nguyên Bình.

· Vào Huế Nguyễn Bính. Gửi thơ cho Trúc Đường đọc trước rồi đăng. Cuối năm 1941 đầu năm 1942 Trúc Đường được nhận nhiều bài thơ của Nguyễn Bính, trong đó có: “Mùa xuân lưu vong” và “Ngày tận thế” Nguyễn Bính về Hà Nội rồi lại vào Sài Gòn.

· Đoạn tuyệt với Trúc Đường lần cuối cùng là năm 1943, đến năm 1945 thì bạt tin dần. Năm 1946, liên lạc bị cắt đứt hoàn toàn.Trong thời gian này, Nguyễn Bính gặp nhà thơ Đông Hồ Kiên Giang. Một thời anh ở nhà Kiên Giang. Lúc đó ông đã viết các bài Hạnh Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Làm Đến Đây,...

· Cùng lúc đó Nguyễn Văn Thịnh (Thủ hiến Nam Kỳ Tự Trị) treo giải thưởng: Ai đưa nhà thơ Nguyễn Bính “dinh ta” (vào kinh thành) thuộc phủ (“Nam Kỳ Tự Trị”)). thưởng 1.000 đồng Đông Dương! Nếu nhà thơ tự mình vào thành phố cũng mừng (1.000 đồng Đông Dương lúc đó là gia sản). “. được mời. Lúc đó anh lang thang khắp Rạch Giá, ban ngày ở nhờ nhà bạn, tối ngủ ở nhà, chỉ có một cái bao sậy để trốn muỗi, nên nhiều người cho rằng anh đã vào thành phố cùng với quan phủ. Tuy nhiên, trong một bài thơ của mình, ông đã viết hai câu khẳng định:

... Mình không bỏ Sở sang Tề

Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi.

· Nhiều người dân Nam Bộ lúc bấy giờ đều biết rằng việc cầu khẩn Nguyễn Bính là tinh thần của một chí sĩ yêu nước.

· Năm 1947 Nguyễn Bính theo Việt Minh, Bảo Định Giang kể tiếp: Tôi không biết là vào năm 1947, nhưng đầu năm 1948, lúc 3 giờ chiều, cô gái ấy đến nơi mình làm rồi hỏi: "Có một đồng chí tên là Nguyễn Bính đến đây tìm anh". .. Thực ra Nguyễn Bính gia nhập lực lượng Việt Minh lúc 3 giờ chiều ngày ấy do cấp trên chỉ đạo là đồng chí Trần Văn Trà và với đồng chí. Nguyễn Văn Vinh đã nhận lời. ngày hôm sau.Không những ông đồng ý mà các đồng chí còn căn dặn: “Hãy đối xử tử tế và chăm sóc tác giả thật tốt.”

· Theo hồi tưởng của Tô Hoài thì Không rõ ai đã dạy Nguyễn Bính hiểu được các chữ số. Phóng viên báo Trăm Hoa đầu tiên, sau là "Bề trên" đã tự ý mang giấy cùng tiền mặt của nhà xuất bản Văn Nghệ đưa lại Trăm Hoa, còn cá nhân Tô Hoài được trao trách nhiệm "kêu gọi một bài báo khác, tuy nhiên ông Hoài đã từ chối. một tiếng nói, vì sự can thiệp này, "Báo Trăm đã có một diện mạo khác. Đừng quay lại với nhân văn, mà quay lại với ai." .Nguyễn Bính nói với Hoài: Đây là trăm hoa là báo của Nguyễn Bính. Nếu không, đó là nó! Sáng kiến ​​“đầu tư” Trăm hoa kết thúc ở . Một buổi tối, Nguyễn mời Bình Tô Hoài ăn tối ở nhà hàng Lục Quốc.Nguyễn Bính nói: Hôm nay ăn đám ma trăm hoa!

Những năm tháng ở Nam Định

· Nguyễn Bính tự truyện trong Tuyển tập Nguyễn Bính 1986

· Chu Văn viết về Nguyễn Bính như sau, trong lời bạt của Tuyển tập Nguyễn Bính: Nguyễn Bính về Nam Hà, tuổi gần năm mươi, gầy, đen, tóc cắt ngắn, gần như hói . Bác ăn mặc giản dị: áo sơ mi nâu, quần kaki bạc màu, chân đi dép cao su. Toàn bộ hình thức trước đây không gợi lên biểu cảm của một nhà thơ lớn, sau được gọi là “nhà thơ trước chiến tranh”. Anh ta cười với đôi mắt nâu, chiếc sắc lẹm, hơi run và nụ cười gượng gạo, hàm răng ố vàng vì khói thuốc lào.

Các tác phẩm

· 30 năm qua Nguyễn Bính sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện ngắn thơ... Ông sáng tác rất hay, viết rất đều và sống hết mình với sự nghiệp thơ ca. Ông được nhiều người đọc và được coi là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Một số tác phẩm:

· Qua nhà (Yêu đương 1936)

· Những bóng người trên sân ga (Thơ 1937)

· Cô hái mơ (Thơ 2007)

· Tương tư

· Chân quê (Thơ 1940)

· Lỡ bước sang ngang (Thơ 1940), 34 bài

· Tâm hồn tôi (Thơ 1940), 23 bài

· Hương cố nhân (Thơ 1941)

· Hồn trinh nữ (Thơ 1958)


NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG


Tiểu sử

Nguyễn Bình Phương sinh tại Thái Nguyên từng nhiều năm công tác tại biên giới phía Bắc. Từng biên kịch tại đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh.

Nguyễn Bình Phương bắt đầu viết văn từ năm 1986, tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du, anh đã trải qua những năm tháng rèn luyện trong quân đội nên có một vốn sống rất phong phú. Một số tiểu thuyết gần đây của anh gây được tiếng vang như Vào Cõi (NXB Thanh Niên 1991), Những đứa trẻ chết già (NXB Văn Học 1994), Người đi vắng (NXB Văn học 1999), Trí nhớ suy tàn (NXB Thanh niên 2000), Thoạt Kỳ Thủy (NXB Hội Nhà Văn 2004).

Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này.

Con người với tính cách đa dạng, không theo một chiều, mà yêu ghét đúng với bản chất người nông thôn. Sự tha hoá của con người, những dục vọng bùng nổ, những hành động phi lý và phi nhân tính được thể hiện một cách nghệ thuật trong tiểu thuyết của anh. Họ có những hành vi vô thức.

Thế giới nhân vật và không khí chuyện của Nguyễn Bình Phương thường mang màu sắc hiện thực huyền ảo pha lẫn tâm linh, ma quái, dường như chúng không thực hiện hữu. Không phải ngẫu nhiên, những người điên, hoặc những người không làm chủ được bản thân trở thành một môtip đặc biệt trong sáng tác của anh. Bản năng của sự sinh tồn hơn lúc nào hết, mãnh liệt và tự nhiên.

Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”, “Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức “Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả.

Khi công bố giải sáng 6/1, ông Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn - cho biết mất nhiều thời gian thuyết phục tác giả dự thi. Nguyễn Bình Phương e ngại do hiện là Phó Chủ tịch hội, trưởng ban sáng tác. Ông Thiều nói: "Tôi cho rằng quan niệm các nhà văn trong ban chấp hành hội không nên nhận giải là cổ hủ. Chúng ta trao thưởng tác phẩm phi văn hóa, kém chất lượng thì mới sợ hãi. Nếu tác phẩm tốt mà không trao, giải mất công bằng".

Một ví dụ xoàng ra mắt tháng 8 năm ngoái, kể về vụ án một tử tù thời bao cấp. Anh tên Sang, có bằng tiến sĩ, một mình nuôi con túng quẫn, liều buôn bốn cân chè từ huyện Đại Từ về thành phố Thái Nguyên. Khi bị truy đuổi, anh vô tình bắn trúng một chiến sĩ, bị xử tử hình.

Nhân vật "Khách" - người con trai của Sang - sau này cất công tìm hiểu cái chết của cha. Người cuối cùng anh gặp là Chánh án Tòa án Tối cao, chủ tọa phiên toà xử bố mình trước đây. Đối với ông ta, cái chết của Sang là chuyện không đáng kể, bởi: "Nếu mỗi người là một ví dụ, thì cậu ấy là cái ví dụ xoàng, hết sức xoàng".

Nguyễn Bình Phương sinh năm 1965 ở Thái Nguyên, tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du, hiện là khoa Lý luận, Sáng tác, Phê bình văn học, Đại học Văn hóa Hà Nội. Anh từng là biên kịch tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, hiện là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh từng xuất bản một số tác phẩm như Vào cõi (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỳ thủy (2004).

Hội cũng công bố Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam 2021 cho tập lý luận phê bình Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa (Trương Đăng Dung, Nhà xuất bản Văn học) và sách dịch Châu Phi nghìn trùng (Iska Dinesen, Hà Thế Giang dịch, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam). Hạng mục thơ không có sách đoạt giải, do không tác phẩm nào đủ số phiếu bầu quá bán từ hội đồng. Trước đó, nhà thơ Hữu Thỉnh - nguyên chủ tịch hội - xin rút tập Ghi chú sau mây, có số phiếu bầu cao. Giải thưởng Hội Nhà văn 2021 dự kiến trao sau rằm tháng giêng âm lịch.

Hội lần đầu công bố Giải thưởng Tác giả trẻ cho Yao của Lưu Hương, Con người của Phương Đặng (hạng mục thơ), tiểu thuyết Nắng Thổ Tang của Đinh Phương (hạng mục văn xuôi), Phê bình phân tâm học phía của những ám ảnh nghệ thuật của Vũ Thị Trang (hạng mục lý luận phê bình), bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh của Nguyễn Bình (hạng mục văn học dịch).


ANH VŨ


Tiểu sử

Anh Vũ tên khai sinh là Nguyễn Công Ứng, còn có bút danh Việt Tâm, sinh ngày 25 tháng 5 năm 1943, là nhà điêu khắc, nhà thơ. Ông quê gốc ở làng Trang Liệt, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, hiện sống tại huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Ông được cho là một nhà thơ “kỳ quặc” vì cách sống của ông có phần khó hiểu. Là một người chất phác, nhưng khi tiếp xúc với ông ta sẽ thấy được ông là một người trải đời, tự học và đọc rất nhiều. Những vần thơ của ông, đậm chất dân dã, gần gũi và vô cùng giản dị.

Tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Anh Vũ

· Đôi mươi quan họ (thơ, NXB Văn học, 1994)

· Lục bát bâng quơ (thơ, NXB Văn học, 1995)

· Cao Bằng (thơ, NXB Văn học, 2006)

· Lòng tay (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2008)

Thơ

· Động rừng

· Tặng cây

· Câu chuyện dân gian lại kể

· Nước mây

· Lời ru

· Cây đa đầu làng

· Còn duyên

· Bến cũ

· Gai xanh

· Cỏ mưa


Tập thơ: Đến những thời trai trẻ

Cây đa đầu làng

Cây khế cuối vườn hoa tím lâm tâm

Thu chưa đến cành hồng còn dấu quả

Sen nở cánh sáng mặt đầm mùa hạ

Bưởi vấn vương hương quyện quanh nhà

Cây chuối cây cam gốc mít cây na

Lá bàng lợp góc sân trường tuổi nhỏ

Anh ngắt tặng em một chùm hoa phượng đỏ

Sắc nguyên lành biết nói chuyện riêng tư

Mỗi nhành hoa cây lá mỗi mùa

Thành kỷ niệm cho đôi người thương mến

Trăm thứ cây chỉ một cây người người thường đến

Đa đầu làng mát rợp lóng quê hương

Con Sẻ xù lô lo con Vạc đầm sương

Rối rít Cả Cương, Chào Mào Di Đá

Mùa trái chín kênh kênh về nhặt quả

Trâu trong lòng nhai cỏ gốc đa xanh.

Cây đa đầu làng dầu chỉ của em anh

Cái buổi ban đầu trăng chờ trăng đợi

Ơi cây đa đêm rễ trên cành làm tuổi

Lá rì rào vẫn hát khúc mùa xuân.

Đỡ chặng đường dài ai chẳng dừng chân

Lúa nặng nắng vàng đôi vai đón gió

Bầu bạn cùng cây là bầy trẻ nhỏ

Nhớ những ngày tan học nhặt búp đa

Soi mặt vào cây là những người già

Máu người chết kết hoa sao tỏa sáng

Đa chói ngời bóng hình người cộng sản

Buổi giặc càn bốn anh ngã nơi đây

Con Chìa Vôi làm tổ trên cây

Ve lột vỏ, Sáo ra ràng tập hót

Người trong làng lấy cây làm hẹn ước

Cây đa là nút lạt buộc yêu thương

Mấy lớp gái trai khoác súng lên đường

Tíu tít làng thôn mắt chào tay vẫy

Ngã ba đường làng cây đa đứng mãi

Giục giã người đi, chờ đón ngày về…

Nghe rào rào gió nổi khắp làng quê.



THI HOÀNG


Tiểu sử

Thi Hoàng (sinh năm 1943 tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng) tên thật là Hoàng Văn Bộ, nhưng thực tế là tộc Vũ, là một nhà thơ hiện đại của Việt Nam. Thi Hoàng được coi là một trong số ít những nhà cách tân của thơ ca đương đại Việt Nam thuộc thế hệ thơ tìm tòi sau Đổi Mới đã gặt hái được nhiều thành công trong những sáng tác của mình. Ông đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007) do có những đóng góp nổi bật cho nền thơ ca đương đại của Việt Nam. Thi Hoàng (tên khai sinh là Hoàng Văn Bộ) sinh năm 1943 tại huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Năm 1967, khi đang làm cán bộ kỹ thuật ngành giao thông vận tải, theo tiếng gọi của đất nước ông lên đường nhập ngũ rồi vào chiến trường miền Nam. Một thời gian sau ông bị thương được chuyển ra Bắc điều trị. Sau đó chuyển ngành về Sở Giao thông Vận tải thành phố Hải Phòng, tiếp đó chuyển sang làm công tác xuất bản ở Sở Văn hóa-Thông tin Hải Phòng. Năm 1976, Thi Hoàng chuyển về Hội Liên hiệp Văn học-Nghệ thuật Hải Phòng làm cán bộ biên tập Tạp chí Cửa Biển cho đến ngày nghỉ hưu, năm 2004.

Thi Hoàng có thơ đăng báo Văn Nghệ từ năm 1963. Trong bài thơ "Ở giữa cây và nền trời", in trên báo Văn Nghệ năm 1968 có hai câu thơ gây ấn tượng cho những người yêu thơ hiện đại Việt Nam đến tận hôm nay: "Trời thì xanh như rút ruột mà xanh, Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc". Tuy xuất bản không thật nhiều, nhưng thơ Thi Hoàng lại tạo được dư luận sâu rộng bởi sự cách tân về ngôn từ, độc đáo với những ý tứ lạ và táo bạo trong cách diễn đạt. Năm 2007, ông đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho bốn tập thơ-trường ca: "Nhịp sóng", "Ba phần tư trái đất", "Gọi nhau qua vách núi" và "Bóng ai gió tạt".

Trường ca "Gọi nhau qua vách núi" viết về chiến tranh mà chủ yếu là số phận của người lính trong chiến tranh là tác phẩm đặc biệt thành công của Thi Hoàng đã được trao các giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1996), giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm và nằm trong cụm tác phẩm giành Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007).

Hiện tượng Thi Hoàng

Đến thời chống Mỹ, Hải Phòng lại đóng góp một tài năng mới cho đất nước: Thi Hoàng, người tiếp nối mạch tài hoa của các thế hệ cha anh đi trước. Thi Hoàng, sinh năm 1943 tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng, tên thật là Hoàng Văn Bộ, năm 1967, ông nhập ngũ rồi vào chiến trường miền Nam chiến đấu, sau một thời gian ông bị thương, được chuyển ra Bắc điều trị, rồi phục viên. Năm 1976, Thi Hoàng chuyển về công tác tại Hội Liên hiệp Văn học-Nghệ thuật Hải Phòng cho đến khi nghỉ hưu năm 2004. Thi Hoàng là một hiện tượng nổi bật của thi ca đương đại Việt Nam

Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, ông vẫn phát huy tài năng với bút lực thật dồi dào, đặc biệt thành công với hai tác phẩm “Gọi nhau qua vách núi” (trường ca, 1995) và “Bóng ai gió tạt” (2001) khiến tên tuổi và tác phẩm của Thi Hoàng trở thành hiện tượng, nhận được nhiều giải thưởng cao quý và tình cảm ngưỡng mộ của người yêu thơ Việt Nam. Bài “Sự cách tân của những liên tưởng độc đáo” trên báo Văn nghệ trẻ ca ngợi ông “nổi bật lên trong số rất ít những nhà cách tân của thơ đương đại Việt Nam”.

Cống hiến không mệt mỏi, ông được tôn vinh bằng Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1996), Giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2001), Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007). Ông bộc bạch: “Tôi quan niệm, văn chương nói chung và thơ nói riêng phải quyến rũ người đọc chứ không nên đuổi bắt độc giả... Tôi ủng hộ việc cách tân thơ nhưng cách tân không có nghĩa là chỉ đơn giản là bẻ gãy câu thơ, phá bỏ cấu trúc, ngữ pháp, khoa trương ngôn từ... Làm như thế, thơ chỉ là một đống xác chữ chứ không tạo ra những câu thơ làm rưng rưng người đọc và cũng không thể tạo ra những câu thơ vui buồn khi cần người ta có thể mang ra ngẫm ngợi hoặc chia sẻ.” (theo bài “Thi Hoàng: Làm thơ giống đang yêu” của tác giả Nông Huyền Diệu đăng trên Tiền phong điện tử tienphong.vn ngày 04-1-2015).

Ông xứng đáng là người tiếp nối mạch nguồn tài hoa người miền biển, người tiếp lửa cho các thế hệ trẻ tài năng của thi ca Đất Cảng sau này.

Tác phẩm đã xuất bản

· Nhịp sóng (1976)

· Ba phần tư trái đất, trường ca (1980)

· Nhịp sang (1982)

· Gọi nhau qua vách núi, trường ca (1995)

· Đóm đóm và sao (1997)

· Bóng ai gió tạt (2001)

· Cộng sinh với những khoảng trống (2005)

· Tuyển tập thơ Thi Hoàng (2014)

Quan điểm về thơ

Tôi quan niệm, văn chương nói chung và thơ nói riêng phải quyến rũ người đọc chứ không nên đuổi bắt độc giả... Tôi ủng hộ việc cách tân thơ nhưng cách tân

không có nghĩa là chỉ đơn giản là bẻ gãy câu thơ, phá bỏ cấu trúc, ngữ pháp, khoa trương ngôn từ... Làm như thế, thơ chỉ là một đống xác chữ chứ không tạo ra những câu thơ làm rưng rưng người đọc và cũng không thể tạo ra những câu thơ vui buồn khi cần người ta có thể mang ra ngẫm ngợi hoặc chia sẻ.

Thành tựu nghệ thuật

Giải thưởng văn học:

· Giải thưởng Văn học đề tài lực lượng vũ trang – chiến tranh cách mạng 1994 – 1995.

· Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1996) cho tập trường ca Gọi nhau qua vách núi (1996).

· Giải thưởng văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hải Phòng, 1996 – 1997 cho tập trường ca “Gọi nhau qua vách núi”

· Tặng thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học & Nghệ thuật Việt Nam năm 2001.

· Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007 cho bốn tập thơ – trường ca: “Nhịp sóng”, “Ba phần tư trái đất”, “Gọi nhau qua vách núi” và “Bóng ai gió tạt”.



LÊ ĐẠT


Tiểu sử

Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt (10 tháng 9 năm 1929 - 21 tháng 4 năm 2008), là một nhà thơ Việt Nam. Ông là một trong những nhân vật trụ cột của Phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Về thơ, Lê Đạt tự nhận mình là phu chữ, vì thơ ông viết rất kỹ tính, cẩn thận từng câu chữ, chọn lọc, suy nghĩ và dằn vặt rất nhiều.

Lê Đạt sinh ngày 10 tháng 9 năm 1929 tại Yên Bái. Ông tham gia cách mạng ngay sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công. Gần như trong suốt quá trình hoạt động ông đều công tác ở ngành Tuyên huấn, sau lên Tuyên huấn Trung ương, trực tiếp theo dõi phong trào văn nghệ, văn hóa và giáo dục. Vì vậy ông có dịp tiếp xúc với gần như tất cả giới văn nghệ Cách mạng Việt Nam.Hòa bình lập lại năm 1954, ông về Hà Nội làm biên tập viên, bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, rồi được học lớp tiếp quản để về tiếp quản khu 300 ngày ở Quảng Ninh, trước khi Nhân văn-Giai phẩm bùng nổ. Với bài thơ "Ông bình vôi" đăng trên báo Nhân Văn mà nhiều người cho là ám chỉ Hồ Chí Minh và các lãnh đạo đảng, ông bị lên án "phản động" và bị trừng phạt.

Đầu tiên ông được thuyên chuyển sang làm ở ban đối ngoại của Hội nhà văn Việt Nam để không cho tiếp xúc với việc làm báo nữa, trước khi bị truất quyền đảng viên vào tháng 7 năm 1957. Một năm sau, sau khi dự lớp "đấu tranh tư tưởng" tại Thái Hà Ấp, vào tháng 8 năm 1958, ông chính thức bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm. Thực tế hình phạt 3 năm đã kéo dài 30 năm, cho đến năm 1988, khi ông được phục hồi tư cách hội viên Hội Nhà văn và quyền xuất bản. Năm 2007, cùng với ba nhà thơ khác của Phòng trào Nhân văn-Giai phẩm là Trần Dần, Phùng Quán và Hoàng Cầm, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

Ông mất ngày 21 tháng 4 năm 2008 tại Hà Nội.

Phong cách sáng tác

Thơ Lê Đạt là sự kết hợp kinh nghiệm của thơ cổ điển Việt – Hán, thơ dân gian và thơ lãng mạn, thơ hiện đại Pháp. Có lẽ do quan niệm thơ không chỉ để hiểu mà còn để cảm, nên muốn tiếp cận thơ Lê Đạt không thể chỉ bằng cách phân tích thông thường, bằng con đường trực giác, mà bản thân người đọc cũng phải có sự rung động và đồng cảm với tác giả. Bài thơ Cha tôi được viết một cách tự nhiên, dung dị và chân thật, có lẽ là bài thơ vào loại hay nhất của Lê Đạt. Ngoài ra, có thể tìm thấy một số câu hay, một số câu xuất thần và một số bài hay trong những dòng chữ tưởng chừng như vô nghĩa của ông (Cỏ lú, Gốc khế, Hà Nội B52, Anh ở lại…).

Lê Đạt đã mang đến cho thơ hiện đại Việt Nam một hướng đi riêng, tuy chưa được tán thưởng rộng rãi. Thơ ông có những bài, những câu còn quá cầu kỳ đến mức trở nên khó hiểu, lập dị. Nhưng với cả một đời lao động nghệ thuật, những thể nghiệm thơ của Lê Đạt là đáng được trân trọng.

Tác phẩm

· Bài thơ trên ghế đá (thơ, in chung với Vĩnh Mai, 1958)

· Cửa hàng Lê Đạt (trường ca, 1959)

· 36 bài thơ tình (thơ,in chung với Dương Tường, 1990)

· Thơ Lê Đạt, Sao Mai (chung với Sao Mai, 1991)

· Bóng chữ (thơ, 1994), 95 bài thơ

· Hèn đại nhân (tập truyện, 1994)

· Trường ca Bác (thơ, 1997)

· Ngó lời (thơ, 1997), 241 bài thơ

· Từ tình Epphen (thơ, 1998)

· Truyện cổ tích viết lại (truyện ngắn Lê Đạt – Lê Minh Hà, 2006)

· Mi là người bình thường (tập truyện, 2007)

· U75 Từ tình (thơ và đoản ngôn, 2007), 88 bài

· Đối thoại với đời và thơ (tiểu luận và đoàn ngôn, 2008)

· Đường chữ (thơ, tiểu luận, đoản ngôn, 2009)

Thơ Lê Đạt

Nhân câu chuyện mấy người tự tử

(trích)

Báo Nhân dân số 822

Có đăng tin mấy người tự tử

Vì câu chuyện tình duyên dang dở

Trưa mùa hè nóng nung như lửa

Tôi ngồi làm thơ

Vừa giận vừa thương những người xấu số

Chân chưa đi hết đường đời

Đã vội nằm dưới mộ.

Chết là hết

Hết đau hết khổ

Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên đầu

Hết những bàn tay e ấp tìm nhau...

...Anh công an nơi ngã tư đường phố

Chỉ đường cho

xe chạy

xe dừng

Rất cần cho luật giao thông

Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi

Theo luật lệ đi đường nhà nước

Có thể gây nhiều đau xót

ngoài đời"

(Báo Nhân Văn số 1 ngày 20 tháng 9 năm 1956.)

"Ông bình vôi"

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một dãy bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại...

Trích "Cuộc trò chuyện cuối cùng với nhà thơ Lê Đạt"

Lê Đạt và phong trào Nhân văn Giai phẩm

Như nhà thơ Lê Đạt kể, sau vụ phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu năm 1955, Trần Dần và Tử Phác bị giam 3 tháng kiểm thảo trong quân đội, khi hai người được ra, Lê Đạt có ý kiến để cách tân thơ ca Việt Nam, thoạt khỏi ảnh hưởng của Thơ Mới, bây giờ phải làm sao mà in được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ - nghĩa là không bị kiểm duyệt cả. Sẽ là một tập tự do sáng tác hoàn toàn, tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt. Tập thơ mang tên Giai phẩm Mùa xuân xuất bản vào tháng 1 năm 1956. Hoàng Cầm và Lê Đạt là hai người làm chính đi thu thập sáng tác của mọi người và mang đi in, vì trong thời gian này Trần Dần cùng Tử Phác đang đi tham gia Cải cách ruộng đất cách Hà Nội 12 cây số. Bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần làm xương sống của cả quyển. Theo ông kể thì ngay sau khi in ảnh hưởng của nó rất ghê gớm,

khiến ngay cả các tác giả cũng không thể ngờ được, đi đâu ra đường ở Hà Nội cũng thấy người ta nói đến mấy câu thơ nổi tiếng của Trần Dần:


Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ


Thành tựu nghệ thuật

Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.




HOÀNG CẦM


Tiểu sử

Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, (22 tháng 2 năm 1922 – 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội), là một nhà thơ Việt Nam. Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, nay là thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc của Hoàng Cầm ở phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.

Năm 1944, do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952,

ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.

Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án "Nhân văn Giai phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu năm 1970 lúc 48 tuổi.

Năm 1982 ông bị bắt giam vào Hỏa lò vì tập thơ Về Kinh Bắc sáng tác năm 1959 - 1960,đến năm 1983 được tha về mà không có phiên tòa nào xử tội chống Đảng của ông.Hậu quả của việc này là ông mắc bệnh trầm cảm.

Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.

Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

Thời gian cuối đời ông sống tại Hà Nội và ông đã mất vào ngày 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội vì bệnh nặng.

Phong cách sáng tác

Như đã nói, Hoàng Cầm mang trong mình một hồn thơ Kinh Bắc đau đáu, khôn nguôi. Hoàng Cầm là ông hoàng của thơ trữ tình duy mỹ và những sáng tác thơ của ông trong hơn nửa thế kỷ qua đã nói lên điều ấy. Thơ trữ tình của Hoàng Cầm có một phong thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cả một vùng Kinh Bắc - cái nôi của nền văn hoá sông Hồng. Tài năng ông là ở chỗ tìm tòi đổi mới thơ mà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển, nâng cao tư duy thơ mà giọng điệu vẫn không xa lạ với mọi người. Có ý kiến cho rằng, trong thơ Hoàng Cầm thấp thoáng có những nét chạm khắc tinh hoa của kiến trúc đình-chùa vùng Kinh Bắc, nó mang hơi thở và dấu ấn sáng tạo tuyệt kỹ của những nghệ nhân dân gian. Cái đẹp, cái hay trọn vẹn trong trầm tích mang tên Kinh Bắc đã đằm rất sâu vào hồn thơ của Hoàng Cầm.

Hoàng Cầm là nhà thơ nổi tiếng, những giá trị của tác phẩm mà ông đã viết mất một khoảng thời gian khá dài mới lấy lại được vị trí vốn có của nó. Dẫu có thể có nhiều tranh cãi trong quá khứ, nhưng không ai có thể phủ nhận tài năng của ông.

Tác phẩm

Nhà thơ có khá nhiều các tác phẩm, chủ yêu thuộc thể loại thơ, cũng có một vài tác phẩm thể loại khác tuy nhiên không nổi bật. tác phẩm được độc giả biết đến nhiều nhất chính là “lá diêu bông”, viết về mối tình không thành của chính nhà thơ

dành cho người chị hơn tuổi của mình. Lá diêu bông không có thật, tuy nhiên vì cái hay của nó, cho đến bây giờ lá diêu bông vẫn được coi là biểu tượng của tình yêu chung thủy và vĩnh hằng. Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đánh giá: “Thơ Hoàng Cầm rất nhiều bài hay. Nhưng bài tôi tâm đắc nhất là bài “Lá diêu bông”. Vì ở đấy nó có phẩm chất mà tất cả các nhà thơ của nhân loại đều phải có. Vì riêng chuyện ông sáng tạo ra lá diêu bông đã là một câu chuyện. Hàn Mạc Tử cũng sáng tạo ra cõi phượng trì… rất mông lung thì đến Hoàng Cầm ông lại nghĩ ra là Lá diêu bông. Bài thơ thể hiện tâm trạng đau đớn và khắc khoải của chính nhà thơ khi tình yêu không thành.

Ngoài ra, bài thơ “bên kia sông Đuống” cũng là tác phẩm rất hay của nhà thơ Hoàng Cầm, thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật của nhà thơ, một hồn thơ đậm chất Kinh Bắc, giản dị, thân thuộc. Một tình yêu với quê hương sâu sắc.

Bên cạnh đó, ta có thể liệt kê một số tác phẩm chính khác sau đây:

· Hận ngày xanh (phóng tác theo La martine 1940);

· Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen, 1940);

· Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941);

· Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942);

· Thoi mộng (truyện vừa, 1941);

· Mắt thiên thu (tập thơ, mất bản thảo, 1941);

· Hai lần chết (truyện ngắn, 1941);

· Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944);

· Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);

· Kiều Loan (kịch thơ, 1945);


Ý NHI


Tiểu sử

Ý Nhi (sinh năm 1944) là một trong những nữ nhà thơ hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam. Thơ của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các nhà nghiên cứu thơ phương Tây đánh giá là một trong những nhà thơ Việt Nam đương đại tiên phong sau Đổi mới.

Bà tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh tại thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam trong một gia đình có truyền thống nho học. Bà là con gái lớn của giáo sư Hoàng Châu Ký, một người hoạt động cách mạng đồng thời là một nhà nghiên cứu về nghệ thuật tuồng. Bà lớn lên tại Hà Nội và tốt nghiệp cử nhân khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng

hợp Hà Nội năm 1968. Bà kết hôn với giáo sư Nguyễn Lộc, ông cũng là một nhà nghiên cứu về tuồng và là một trong những nhà sáng lập Trường Đại học Văn Hiến.

Sự nghiệp

Bà nhận Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1985 với tác phẩm Người đàn bà ngồi đan. Cùng với Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Ý Nhi thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ nhưng thực sự nổi bật sau chiến tranh với những cách tân hiện đại, làm mới thơ Việt Nam về cả nội dung và hình thức. Thơ Ý Nhi giản dị mà đậm chất trí tuệ, giọng điệu thơ trầm lắng, suy tư, thiết tha mà chua xót. Với ngôn ngữ đậm chất triết luận, thơ Ý Nhi là sự ký thác sâu lắng của một trái tim không khi nào thôi khắc khoải trên hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc đời. Bà cũng đã viết một số truyện ngắn rất đặc sắc và là một trong số ít nhà thơ nữ được sự đón nhận rộng rãi của công chúng. Bà còn là một người mê bóng đá cuồng nhiệt (truyện ngắn: Roy Evan rời bỏ Liverpool).

Bà đã từng là một nhà báo và cán bộ biên tập ở Nhà xuất bản Hội nhà văn chi nhánh phía Nam. Bà là hội viên Hội nhà văn Việt Nam cho tới năm 2002. Hiện nay bà sống và sáng tác tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nằm 2015, nhà thơ Hoàng Thị Ý Nhi đã được trao tặng giải thưởng văn học Thụy Điển Cikada. Giải thưởng được trao để vinh danh Ý Nhi vì "những bài thơ rất hay của bà đã bảo vệ cho tính bất khả xâm phạm của đời sống". Đây là lần đầu tiên một nhà thơ Việt Nam được trao giải thưởng cao quý này.

Cuộc sống gia đình

Nhà thơ Ý Nhi là con gái lớn của giáo sư Hoàng Châu Ký, một người hoạt động cách mạng đồng thời là một nhà nghiên cứu về nghệ thuật tuồng.Bà kết hôn với giáo sư Nguyễn Lộc, ông cũng là một nhà nghiên cứu về tuồng và là một trong những nhà sáng lập Trường Đại học Văn Hiến.

Tác phẩm đã xuất bản:

· Nỗi nhớ con đường (thơ - in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ), Nhà xuất bản Văn học 1984.

· Đến với dòng sông (thơ), Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1978.

· Cây trong phố chờ trăng (thơ - in chung với Xuân Quỳnh), Nhà xuất bản Hà Nội 1981.

· Người đàn bà ngồi đan (thơ), Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1985 -

· Ngày thường (thơ), Nhà xuất bản Đà Nẵng 1987

· Mưa tuyết (thơ), Nhà xuất bản Phụ nữ 1991

· Gương mặt (thơ), Nhà xuất bản Trẻ 1991

· Vườn (thơ), Nhà xuất bản Văn học 1998

· Thơ tuyển, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2000

· Ý Nhi tuyển tập, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2011

· Có gió chuông sẽ reo (truyện ngắn), Nhà xuất bản Trẻ 2014

Thành tựu nghệ thuật

Giải thưởng văn học:

· Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 với tập thơ "Người đàn bà ngồi đan".

· Giải thưởng Văn chương Cikada của Thụy Điển năm 2015.

Đánh giá

“ Thơ chị chiếm đầu bảng trong dòng thơ phái nữ phía Nam ở ta. Không nhiều du dương cảm xúc nhưng khác biệt ở chỗ nó nghĩ ngợi trở qua trở lại, nó lay thức người đọc. Thơ khiến ta thấu hiểu. Không mấy ai có thể bỏ qua, có thể thờ ơ với những nhân vật thơ của chị. Người đàn bà ngồi đan sống thế nào trong đời thực? Hình bóng của ai đây? Thường ra đó là câu hỏi dành cho nhân vật văn xuôi. Nhưng đây là thơ. Thơ của chị là của ý tứ của ngôn từ, thường ta ít thuộc được thơ tự do nhưng Ý Nhi, thơ chị, lại bất chợt đến với ta trong những lúc ta đơn độc...

...Ý Nhi làm được những việc rất khác biệt nhờ truyện ngắn. Chị đứng ở vị trí người đàn ông - hầu hết nhân vật - để có cơ hội bộc lộ hết những thông minh sắc sảo, vừa cứng cỏi vừa yếu đuối của con người. Truyện của chị ít tình huống phức tạp nhưng chật chội tâm trạng tâm thế.

Dù rất hiện đại về cả giọng điệu và hình thức, thơ Ý Nhi vẫn chất chứa sự nhẹ nhàng, im lặng và nỗi lòng của một người phụ nữ đã trải nghiệm những nỗi buồn sâu sắc trong cuộc đời.



HỮU LOAN


Tiểu sử

Hữu Loan (2 tháng 4 năm 1916 – 18 tháng 3 năm 2010) là một nhà thơ Việt Nam, đồng niên với nhà thơ Xuân Diệu. Quê ông tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan ; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914) tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (nay là xã Nga Phượng), huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội . Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương.

Sau khi phong trào Nhân văn Giai phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó bị quản thúc tại địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa

Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến . Có thông tin cho rằng, do nội dung bài thơ nặng nề tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải ngũ[cần dẫn nguồn]. Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi (tuổi mụ hay còn gọi là tuổi âm).

Gia đình

Hữu Loan kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1949 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỳ, Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1946). Hữu Loan quen biết bà Ninh khi ông còn học college Đào Duy Từ, Thanh Hóa. Ông đã làm gia sư dạy mấy người anh trai và sau đó là bà Ninh. Tháng 5 năm 1949, bà Ninh mất (do chết đuối) khi mới 16 tuổi và bài thơ Màu tím hoa sim ra đời. Sau đó ông kết hôn với bà Phạm Thị Nhu, con một gia đình đại địa chủ bị tịch thu gia sản trong Cải cách Ruộng đất, bài thơ Hoa lúa (1955) chính là bài thơ viết tặng người vợ thứ hai này.

Tác phẩm

Trước lúc ra đi, ông để lại khoảng 60 bài thờ. Một số những bài thơ phổ biến của ông phải kể đến như:

· Cũng những thằng nịnh hót;

· Đêm;

· Đèo cả;

· Màu tím hoa sim;

· Ngày mai;

· Hoa lúa;

· Tình Thủ đô;

· Thánh mẫu hài đồng;

· Yên mô.

Ngoài ra, còn nhiều những tác phẩm khác của ông cũng đi vào lòng nhiều độc giả. Một trong những tác phẩm được nhà thơ Hữu Loan viết vào giai đoạn Kháng chiến chống Pháp đó là bài thơ Màu tím hoa sim. Một trong những bài thơ làm xúc động bạn đọc nhiều thế hệ. Sau 9 năm kháng chiến với vỏn vẹn 10 bài thơ và đó cũng là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông trong thời kháng chiến. Cuối năm 1957 ông chia tay Hà Nội để trở về Nga Sơn kiếm kế sinh nhai.

Hữu Loan lặng lẻ sống suốt mấy chục năm ở xứ Thanh, lăn lưng đi làm thuê “chở đá, đốn củ” kiếm tiền nuôi vợ con. Người vợ đầu tiên của Hữu Loan là bà Lê Đỗ Thị Ninh chết trẻơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và bài thơ Màu Tím Hoa Sim ông viết cho bà ấy:

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh

bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê...


Đánh giá

“ Hữu Loan là người ẩn tướng. Thoạt nhìn, rất khó đoán định nội lực của con người vừa có dáng tiên phong đạo cốt vừa có vẻ một tiều phu núi xanh này. Thì đúng, Hữu Loan đã từng làm công việc nặng hơn việc một tiều phu: ông thồ xe chở đá độ nhật và nuôi cả gia đình trong thời gian khổ và đau đớn... Ông xa xôi như hình bóng một tiên ông, lại gần gũi như một người nông dân vừa xong buổi cày. Thiên lý ấy lại gần trong gang tấc.”

Thơ Hữu Loan thường làm theo thể tự do, có âm điệu giàu nhạc tính để chuyển tải tâm sự vì thế những bài thơ hiếm hoi đã được phổ biến của ông đều sống trong lòng độc giả. Nói đến Hữu Loan là người ta nhớ đến Màu tím hoa sim, bài thơ xuất phát từ là nỗi lòng của riêng ông nhưng gây xúc động và nhận được sự đồng cảm của người đọc. Bài thơ đã được các nhạc sĩ Dũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng phổ nhạc. Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: ViTek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng.

Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (Điếu văn tiễn biệt Nhà thơ Hữu Loan):

“ Ông ra đi thanh nhàn, nhẹ nhõm và mãn nguyện như vừa chở xong một chuyến xe đá giữa bà con xóm giềng. Những người như ông không bao giờ coi cái chết là trút xong một món nợ đời, mà chính là bước sang một thế giới khác sinh sinh, hóa hóa vô thường. Thế hệ đời sau nhớ mãi một nhà thơ chiến sĩ, nhớ mãi thi nhân chở đá xây đời. ”






CHÍNH HỮU


Tiểu sử

Chính Hữu (15 tháng 12 năm 1926 - 27 tháng 11 năm 2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, Quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Là một nhà thơ Việt Nam.Thơ ông chỉ viết về người lính và 2 cuộc kháng chiến. Ông tham gia 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Ông Nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật lần hai (năm 2000).

Ông sinh tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Nguyên quán của ông là huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô, chiến đấu chống lại quân đội Pháp ở Hà Nội. Sau khi đưa chính phủ đầu não Việt Minh ra khỏi vùng chiến sự, đơn vị của ông rút quân về huyện Đông Anh và sống sót. Ông được đưa đi bồi dưỡng chính trị, làm chính trị viên đại hội (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954).

Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).

Vào 00 giờ 27 phút ngày 27 tháng 11 năm 2007, ông đã qua đời tại bệnh viện Hữu Nghị thành phố Hà Nội.

Tác phẩm

Nhà thơ Chính Hữu có rất nhiều sáng tác hay trong đó có:

Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966) gồm 24 bài.

· Đồng chí

· Tháng năm ra trận

· Đêm Hà Nội 1950

· Sáng hôm nay

· Gửi mẹ

· Giá từng thước đất

· Thư nhà

· Lá nguỵ trang

· Lá phiếu hôm nay

· Khẩu hiệu

· Duyệt binh

· Nhật ký biên giới

· Vô danh

· Ga biên giới

· An-ba-ni

· Ngọn gió

· Qua Xi-bê-ri

· Cây

· Một nửa

· Bắc cầu

· Đường ra mặt trận

· Trang giấy học trò

· Trận địa Hà Nội

· Ngọn đèn đứng gác

Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1977)

Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1988)

Bài thơ Đồng chí

Trong sáng tác của ông có bài thơ Đồng chí được nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc và một số bài thơ khác của ông là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ khác sáng tác như bài hát nổi tiếng “Ngọn đèn đứng gác” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, “Bắc cầu” của nhạc sĩ Quốc Anh, “Có những ngày vui sao” của nhạc sĩ Huy Du.

Phong cách sáng tác

Chính Hữu là một nhà thơ quân đội, trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của mình ông luôn gắn bó với màu áo xanh của người lính. Những sáng tác của ông đều cống hiến cho sự nghiệp Cách mạng của nước nhà. Là một người lính khi viết thơ về người lính ông luôn mang đến những lời tốt đẹp dành cho họ. Nói về thơ của mình, về nghề chính tác giả Chính Hữu cũng tâm sự rằng: “Thơ phải ngắn ở câu chữ, nhưng phải dài ở sự ngân vang”.

Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Chính Hữu có bài thơ Đồng chí, bài thơ đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một bài thơ xuất sắc. Bằng những cảm nhận chân thật nhất tác giả đã viết và thể hiện tình đồng chí giữa các chiến sĩ, tình thương gắn bó giữa nhân dân ta. Bài thơ khơi dậy cho độc giả nhiều cảm xúc mạnh liệt, đây là một trong những bài thơ hay về người lính cách mạng Việt Nam trong thời kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.

Số lượng tác phẩm của Chính Hữu không nhiều nhưng thơ ông lại có nhiều nét đặc sắc, sớm định hình một phong cách riêng mang dấu ấn cá nhân: Thơ Chính Hữu chân thành, mộc mạc, nói ít, gợi nhiều, giàu tính khái quát, triết lý, có chiều sâu, khơi gợi những liên tưởng vượt ra ngoài giới hạn của bài thơ, tạo ra những giăng mắc, vấn vương trong ngôn từ, giọng điệu.

Nhận định về Chính Hữu

Trong mạch thơ kháng chiến chống Pháp có nhiều bài thơ hay xúc động về tình đồng đội, tình quan dân như: “Cá nước” của Tố Hữu, “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Lên Cấm Sơn” của Thôi Hữu. Đặc biệt bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu đã ghi một dấu ấn sâu đậm - một trong những thi phẩm xuất sắc của thi ca Việt Nam - Nguyễn Ngọc Phú

Hơn thế, với “Đồng chí” Chính Hữu đã có trong tay một tấm căn cước, một thẻ thông hành về thơ để bước lên văn đàn Việt Nam hiện đại. Xem ra câu àm người ta thường nói là quý hồ tinh, bất quý hồ đa, tức là văn chương, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng cần hay, tinh túy, chứ không cần nhiều, ứng vào trường hợp của nhà thơ Chính Hữu dường như đúng tuyệt đối. Ông không phải là người thường xuyên có mặt và gây tiếng vang lớn trong quá trình phát triển thơ ca cách mạng, nhưng ngay ở thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã có một dấu mốc quan trọng với bài thơ Đồng Chí, khiến nhiều đồng nghiệp, đồng chí phải ngỡ ngàng. Thậm chí thơ của ông còn cắm những mốc son, mang tính chất định vị, định hướng cho cả dàn hợp ca thơ cách mạng xét cả về nội dung tư tưởng lẫn phong cách sáng tác. - Đỗ Ngọc Yên



MỘNG TUYẾT


Tiểu sử

Mộng Tuyết (1914-2007), tên thật Thái Thị Úc; là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của bà là: Hà Tiên cô, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ, Thất Tiểu Muội. Mộng Tuyết là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê và Trúc Hà.

Mộng Tuyết sinh ngày 9 tháng 1 năm 1914 ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên (nay thuộc phường Mỹ Đức, Thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang).

Năm 12 tuổi, Mộng Tuyết bắt đầu tập làm văn ở Trí Đức Học Xá của thi sĩ Đông Hồ. Các sáng tác trong thời kỳ này, sau được tập hợp với nhan đề Bông Hoa Đua Nở đăng ở Nam Phong tạp chí năm 1930.

Năm 1939, Mộng Tuyết được bằng khen về thơ của Tự Lực Văn Đoàn với thi phẩm Phấn hương rừng, và bắt đầu nổi tiếng từ đó.

Năm 1943, bà cùng với Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương xuất bản tập thơ Hương xuân. Đây là tuyển tập thơ nữ đầu tiên ở Việt Nam.

Những năm 50, bà cùng chồng là thi sĩ Đông Hồ lên Sài Gòn mở nhà sách, nhà xuất bản Bốn Phương, Yiễm Yiễm thư trang.

Tháng 3 năm 1969, chồng mất, bà lui về sống ẩn dật tại quận Tân Bình. Sau năm 1995, bà lui về sống đến hết đời tại Nhà lưu niệm thi sĩ Đông Hồ ở tại thị xã Hà Tiên (nay thuộc Thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang).

Mộng Tuyết mất ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.

Tác phẩm

· Phấn hương rừng 1939, được tặng giải “Khen tặng” của Tự Lực văn đoàn

· Đường vào Hà Tiên (tùy bút, 1960)

· Nàng Ái Cơ trong chậu úp (tiểu thuyết lịch sử, 1961)

· Truyện cổ Đông Tây (1969)

· Dưới mái trăng non (thơ, 1969)

· Núi mộng gương hồ (hồi ký ba tập, Nhà xuất bản Trẻ, 1998)

Ngoài ra, bà còn dịch thơ và viết khảo cứu văn học.

Thơ, tùy bút, truyện ngắn của bà thường đăng trên các báo: Tiểu thuyết Thứ Năm, Hà Nội Báo, Con Ong, Đông Tây, Trung Bắc Chủ Nhật, Tri Tân, Gió Mùa,

ánh Sáng, Nhân Loại.

Bài thơ Vì anh Thọ Xuân trích trong tập Phấn hương rừng (1939) của Mộng Tuyết:

Vì ai, đề tặng sách cho ai;

Rồi lại vì ai, cảm tạ người;

Bởi sợ nhà thơ nghèo đến chữ,

Yêu nhau, đưa tặng mấy muôn lời.

Tiếng nhà, của sẵn kho vô tận,

Mặc sức tiêu hoang, mặc sức chơi:

Mua bốn phương trời mây nước đẹp,

Mua nghìn năm cỏ cảnh hoa tươi

Hãy còn thừa thãi, tiêu chưa hết,

Mua lấy, trần gian tiếng khóc cười.

Trước hết, đã mua rồi một món:

Thành Phương hương điểm mối tình dài.

Ngoài Anh Thơ, Mộng Tuyết, Thi nhân Việt Nam còn giới thiệu nhiều nữ sĩ của phong trào Thơ Mới như Hằng Phương, Vân Đài, Thu Hồng.

Nhận xét

Tuy viết nhiều thể loại, nhưng Mộng Tuyết được biết chủ yếu như một nhà thơ. Thơ của bà, như Hoài Thanh, Hoài Chân từng nhận xét:

Còn thơ, hoặc nhẹ nhàng dí dỏm, hoặc hàm xúc lâm ly, hoặc nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn xao rạo rực, tổng chi là lời một thiếu nữ, khi tình tự, khi đùa giỡn, khi tạ lòng người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như khi được đọc thư tình gửi cho một người bạn: người thấy mình đã phạm vào chỗ riêng tây của một tâm hồn, trong tay như đương nắm cả một niềm ân ái.

Trong Văn thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ đánh giá:

Nhất là văn xuôi, Mộng Tuyết viết rất ngọt ngào, chải chuốt, ảnh hưởng nhiều bởi những chuyện Tàu...Thơ của Mộng Tuyết cũng khác thơ Đông Hồ, nó gói ghém nhiều thi tứ hơn, ý nhị hơn.

Sách Tự điển Tác gia Văn hóa Việt Nam khen ngợi:

Thơ bà chuẩn mực, trong sáng, hồn nhiên đượm vẻ ngọt ngào như tiếng nói dịu dàng của những cô gái có học nơi khuê phòng...:Khởi đi từ Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Tương Phố...đến Mộng Tuyết... Tất cả đã để lại cho đời những vần thơ nho nhỏ mà trác tuyệt...

Ngoài ra, Mộng Tuyết còn có những vần thơ nhiều cảm xúc, nói lên sự kiện đau thương mà anh dũng của dân tộc Việt như: "Mười khúc đoạn trường", "Dưới cờ" (1945), "Chiếc lá thị thành" (1947). Trích một đoạn:

Đây một tờ thư của thị thành

Thả về thăm hỏi chiến khu xanh.

Hỡi anh chiến sĩ mùa thu trước,

Hơn một mùa thu bận chiến tranh.

Cảm động trước bài thơ ấy, ông tướng – thi sĩ, tác giả của hai câu thơ nổi tiếng: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi, Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” đã sáng tác bài Lá thư rừng gửi về cho Mộng Tuyết. Bài thơ này đã được Huỳnh Văn Nghệ ký với bút danh Huỳnh Văn, và đã được đăng trên phụ trương Ánh sáng văn chương do Đông Hồ phụ trách:

Trời! Cảm động đọc bức thư thành thị

Gởi về thăm và an ủi chiến khu

Dấu lệ rơi trên nét chữ đã mờ

Lời êm ả, dịu dàng và tha thiết.

Đó là chỉ nói riêng phần thơ. Vân Muội thương nhớ còn được Mộng Tuyết nhắc đến trong nhiều bài ký nữa. Truyện ngắn Có những vợ chồng ngâu mới chính là lòng cảm thông sâu sắc của nàng Úc đối với những đôi lứa vì kháng chiến mà phải xa nhau. Ông đạo Lập với những hành tung xuất chúng nào phải đâu để nói chuyện mê tín, hoang đường. Rồi còn Bánh bò kháng chiến và truyện, ký khác…

Chất “thời sự” đó chính là tấm lòng của Mộng Tuyết đối với đất nước, là những rung động của một trái tim nhạy cảm trước lòng quật cường và những đau thương của dân tộc.

Thành tựu nghệ thuật

Năm 1939, bà được bằng khen về thơ của Tự Lực Văn Đoàn với thi phẩm "Phấn hương rừng".



NGUYỄN ĐỨC MẬU


Tiểu sử

Nguyễn Đức Mậu (sinh năm 1948) là một nhà thơ, nhà văn quân đội. Ông từng nhận được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng văn học Asean năm 2001. Ông sinh ngày 14 tháng 1 năm 1948 tại xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông nhập ngũ năm 1966, chiến đấu trong đội hình sư đoàn 312 ở chiến trường Lào. Sau chiến tranh ông làm biên tập viên, rồi đi học trường viết văn Nguyễn Du, khóa I, sau đó làm trưởng ban tại ban thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, phó chủ tịch hội đồng Thơ - Hội nhà văn Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông thường sử dụng các bút danh Nguyễn Đức Mậu, Hương Hải Hưng, Hà Nam Ninh.

Hiện ông nghỉ hưu với quân hàm đại tá và sống cùng vợ con ở Hà Nội.\

Phong cách sáng tác
Viết về chiến tranh, thơ của Nguyễn Đức Mậu có những câu thơ như thực như hư, đầy ám ảnh.
Thơ của ông là ký ức về người lính, về đồng đội, về sự chờ đợi của người phụ nữ ở hậu phương trong những tháng năm trận mạc.
Giọng thơ của Nguyễn Đức Mậu chân chất, mộc mạc ở tình cảm mà tài hoa, thi sĩ ở cách biểu đạt.
Khi viết thơ về đồng đội, ông thường dùng những từ ngữ chỉ sự biết ơn, trân trọng và thương nhớ

Sự nghiệp sáng tác

· Nguyễn Đức Mậu thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời chống Mỹ. Với những sáng tác mang đậm dấu ấn riêng về chiến tranh với người lính và những kỷ niệm về quê hương một thời đánh giặc.

· Nguyễn Đức Mậu đã xác định được vị trí của mình trong lĩnh vực thơ ca, từ một người lính làm thơ trở thành một nhà thơ mặc áo người lính.

· Bên cạnh tấm lòng biết ơn đồng đội. Nguyễn Đức Mậu còn khắc họa hình ảnh chờ đợi, biểu tượng tấm lòng vàng đá của người phụ nữ Việt Nam.

· Ngoài thơ, Nguyễn Đức Mậu còn viết tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện thơ thiếu nhi, lời bình phim.

Tác phẩm chính

Thơ và Trường ca

- Thơ người ra trận (in chung cùng Vương Trọng, 1971)

- Cây xanh đất lửa (1973)

- Áo trận (1973)

- Mưa trong rừng cháy (1976)

- Trường ca sư đoàn (Trường ca, 1977 - 1980)

- Trường ca Côn Đảo (Trường ca, 1978 - 1991)

- Người đi tìm chân trời (Chuyện thơ, 1982)

- Khi bé Hoa ra đời (In chung cùng Hữu Thỉnh, 1984)

- Hoa đỏ nguồn sông (1987)

- Từ hạ vào thu (1992)

- Bão và sau bão (1994)

- Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998)

- Bầy chim màu lá vàng (2004)

- Thơ lục bát (2007)

- Mở bàn tay gặp núi (trường ca, 2008)

- Từ trong lòng cuộc chiến (tuyển tập, 2010) 99 bài thơ

-Cha tôi

-Chợ quê

-Chuyện nhỏ trong rừng

Truyện ngắn, phê bình & tiểu thuyết

- Con đường rừng không quên (Truyện ngắn, 1984)

- Ở phía rừng Lào (Truyện vừa, 1984)

- Tướng và lính (Tiểu thuyết, 1990)

- Chí Phèo mất tích (Tiểu thuyết, 1993)

- Con đường nhiều tơ nhện giăng (Tập truyện ngắn, 2001)

- Niềm say mê ban đầu (Tiểu luận phê bình, 2010)

Thơ Nguyễn Đức Mậu rất hay.



“Hà Nội chiều nay nắng vừa đủ nắng

Gió cũng vừa đủ gió để rung cây

Mặt hồ rộng thực hư làn khói mỏng

Rượu bạn mời tôi uống cũng vừa say”

Những câu thơ vừa loang xa vừa chừng mực. Đó là thơ hay.

“Nơi tôi ở hoa đại rơi trắng đất

Có ai nhìn hoa nghĩ tóc bạc trên đầu

Cái hòm thư mới một lần sơn lại

Bác gác cổng già năm trước giờ đâu”

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thấm thoắt đã bước vào U80 mà xem ra vẫn còn nặng nợ với thơ ca chữ nghĩa lắm. Lứa các ông dường như đều đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Những gì cần viết ra, nói ra thảy đều trân trọng được bày lên mặt giấy. Chỉ riêng với bài thơ Thời hoa đỏ thôi đã xứng đáng một cống hiến, một tài năng không thể lẫn vào đâu với nhân dân và Tổ quốc. Tổ quốc và nhân dân cần lao đã hy sinh vô bờ bến thực rất cần những câu thơ như trong Thời hoa đỏ. Vẻ đẹp của người lính trong Thời hoa đỏ đã như những hình ảnh đạt tầm biểu tượng của sự hy sinh:

Có người lính

Mùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo

Có người lính

Mùa xuân ấy ra đi từ đó không về

Dòng tên anh khắc vào đá núi

Mây ngàn hóa bóng cây che

Chiều biên cương trắng trời sương núi

Mẹ già mỏi mắt nhìn theo

Việt Nam ơi! Việt Nam!

Núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con

Việt Nam ơi! Việt Nam!

Ngọn núi nơi anh ngã xuống

Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa

Rực cháy lên màu hoa đỏ trước hoàng hôn.

Đó cũng là nỗi niềm của hương đại, hương sen.

Thành tựu nghệ thuật

Các giải thưởng

· Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001

· Giải thưởng văn học Asean năm 2001

· 03 giải hội nhà văn (1994, 1996, 1999)

· 03 giải bộ Quốc phòng (1989, 1994, 2004)

· Giải thưởng văn học nghệ thuật của UB toàn quốc liên hiệp VHNT Việt Nam năm 2004

· Giải thưởng cuộc vận động sáng tác "Vì mầm non XHCN" của Ủy ban thiếu niên nhi đồng TW năm 1980

· Bằng khen của hội đồng giải thưởng văn học sông Mê Kông năm 2012

· Bằng khen của Tổng cục chính trị trong cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân năm 2009

· Giải C cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ Quân đội năm 1981

· Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972-1973


VŨ CAO


Tiểu sử

Vũ Cao (18 tháng 2 năm 1922 - 3 tháng 12 năm 2007) [1] là một nhà thơ Việt Nam. Vũ Cao tên thật là Vũ Hữu Chỉnh quê ở xã Liên Minh huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Ông sinh trong một gia đình nho học và hoạt động văn học khá sớm, những năm đầu Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (kháng chiến chống Pháp) ông làm báo Chiến sĩ ở Liên khu IV rồi làm phóng viên báo Vệ quốc quân, Báo Quân đội nhân dân. Từ năm 1957, ông làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội và trở thành chủ nhiệm trong nhiều năm. Từ Sau năm 1975 ông giải ngũ, làm giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội, chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi nghỉ hưu ông sống ở Hà Nội. Ông là anh ruột của các nhà văn Vũ Tú Nam, Vũ Ngọc Bình. Tuy được biết đến như là một nhà thơ với bài thơ Núi Đôi nổi tiếng đã được đưa vào sách giáo khoa của Việt Nam nhưng Vũ Cao còn sáng tác văn xuôi. Ông mất năm 2007 tại Hà Nội.

Vũ Cao được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Phong cách sáng tác

Nếu đa số các nhà văn, nhà thơ ở ta đều dễ gần thì với tôi nhà thơ Vũ Cao dễ gần hơn cả. Lắm lúc tôi cứ lẩn mẩn nghĩ rằng chẳng hiểu tại sao có những người sống sung sống sướng, có chức vụ quyền hạn hô phong hoán vũ khi về nghỉ rất hay mắc bệnh và mất rất nhanh. Lại có không ít người khổ ơi là khổ, bị chiến tranh lôi vào giần cho chí tử những hai ba cuộc trong mấy chục năm giời, đã thế lại phải làm nhiều đi nhiều rồi thì nào có được nghỉ ngơi bao giờ, già rồi vẫn chỗ này mời đi chỗ khác kéo đến chả thuần nhất một công việc gì cả, chỉ là nói chuyện hoặc đọc thơ ấy mà, có khi là giao lưu văn nghệ tếu táo với học sinh, sinh viên mà các cụ thọ lắm, thọ như nhà thơ Vũ Cao chẳng hạn, thế có ghê không.

Vũ Cao rất hay nói câu “ghê nhỉ” rồi cười thoải mái, cười thoải mái nhưng âm lượng không lớn bao giờ, ông cười bằng mắt là chính, đẹp như một tiên ông.

Tôi biết nhà thơ Vũ Cao mới được hơn mười năm mà cứ như quen lâu lắm. Cơ mà tôi còn trẻ nên Vũ Cao rất khoái mỗi khi tôi đến thăm. Quen, kính trọng và yêu mến ông sau đợt tôi làm phim tài liệu về ông, về núi Đôi và về những người lính thời các ông, có dính dáng cả thời chúng tôi nữa. Cuộc ấy, tôi có nhờ nhà văn Hồng Diệu, Ngô Vĩnh Bình giúp đỡ kịch bản và lấy thêm tư liệu sống từ nhiều văn nghệ sĩ: Mai Văn Hiến, Văn Đa, Xuân Thiều, Lê Lựu và Trần Đăng Khoa. Tại sao lại có Trần Đăng Khoa, là vì mỗi khi tôi thực hiện phim chân dung các văn nghệ sĩ quân đội anh Khoa rất hay tham gia, đôi khi chỉ là một ý kiến, một chi tiết những điều rất đáng quý”.

Tác phẩm chính

· Sớm nay (Thơ năm 1962)

· Đèo trúc (Thơ năm 1973)

· Núi Đôi (Thơ năm 1956)

· Truyện một người bị bắt (Tập truyện ngắn năm 1958)

· Những người cùng làng (Tập truyện năm 1959)

· Em bé bên bờ sông Lai vu (Truyện năm 1960)

· Anh em anh chàng Lược (Truyện 1965)

· Từ một trận địa (Năm 1973)

Bài thơ Núi Đôi được Vũ Cao sáng tác dựa trên một câu chuyên có thật. Người con gái trong bài thơ là Trần Thị Bắc một nữ du kích Việt Minh quê ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài - Đoài Đông xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Làng Xuân Đoài trước kia là thôn Đoài (thôn phía tây) của làng Xuân Dục. Sau này làng tách ra, người trong vùng quen gọi là thôn Xuân Đoài. Lời thơ kể về một chuyện tình yêu lãng mạn và bi tráng của cô du kích và anh bộ đội Trịnh Khanh cùng quê.

Năm 1956, ông Vũ Cao có thời gian công tác ở sư đoàn 312, đóng quân tại huyện Sóc Sơn, bên cạnh núi Đôi. Khi sáng tác, ông chưa từng gặp người lính trong câu chuyện, cũng không biết cô du kích ở núi Đôi đã kết hôn với người lính. Đám cưới của họ diễn ra ở vùng tự do, gia đình lại phải giấu kín vì chiến tranh. Sau 20 năm kể từ khi bài thơ được viết, tác giả Vũ Cao mới gặp người chiến sĩ trong chuyện thơ của mình. Ông từng bộc bạch không hiểu sao lại có sự đồng cảm với người lính Trịnh Khanh đến vậy.

Liệt sĩ Trần Thị Bắc đi kháng chiến, được cử học lớp y tá ở xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội rồi quen anh bộ đội Trịnh Khanh cùng quê. Tình yêu bùng cháy, họ ước hẹn sau khi chiến thắng trận Bắc Hồng (huyện Đông Anh, Hà Nội) sẽ cưới nhau.

Trần Thị Bắc về quê được giao nhiệm vụ làm quân bưu và địch vận. Đêm 21 tháng 3 năm 1954, chị Bắc được giao nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ ra vùng tự do để chuẩn bị trận đánh lớn. Qua núi Đôi, đến ngòi Đầm Sen thì họ gặp phục kích. Chị hy sinh, đồng đội đưa chị lên chôn dưới chân gò Cầu Cồn mà nay thuộc xã Tân Minh, huyện Sóc Sơn.

Hòa bình lập lại, anh Trịnh Khanh mới về được quê nhà. Ở chiến trường, anh đã nhận được hai bức thư. Một bức thư của vợ kèm theo một chiếc đồng hồ và một chiếc khăn len kỷ vật. Một bức thư khác là của gia đình báo tin vợ anh đã hi sinh

Từ con rể, anh Khanh trở thành anh cả trong gia đình người vợ đã mất. Chính mẹ chị Bắc là người đã mai mối và hỏi vợ cho anh Khanh. Mọi người tin rằng đó cũng là ước nguyện của hương hồn chị Bắc, chị vẫn mong anh thanh thản tâm hồn và gắn bó với gia đình mình...

Thành tựu nghệ thuật

Ông đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (đợt 1, năm 2001).



PHẠM TIẾN DUẬT


Tiểu sử

Phạm Tiến Duật (14 tháng 1 năm 1941 – 4 tháng 12 năm 2007) là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm thơ tiêu biểu viết trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.Phạm Tiến Duật sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của chương trình Vui – Khỏe – Có ích trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam những năm đầu lên sóng.

Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.

Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8 giờ 50 phút, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.

Phong cách sáng tác

Ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây".

· Những đóng góp chủ yếu của ông cho văn học là tác phẩm thơ.

· Phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ.

· Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch” nhưng cũng rất sâu sắc.

· Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”.

· Những dòng thơ của Phạm Tiến Duật thể hiện những tâm tư, tình cảm, những lời thơ thay cho nỗi lòng của những người chiến sĩ đang ngày đêm chống Mỹ cứu nước. Ngôn ngữ thơ của ông mang gia giọng điệu sôi sổi, trẻ khỏe mà tinh nghịch, điển hình là tác phẩm “Trường Sơn đông, Trường Sơn Tây”.

· Nhà văn Nguyễn Văn Thọ đã từng viết về Nhà thơ Phạm Nhật Duật như sau “Thơ ông mang hơi thở của cả một thời đại nhưng bằng một khí phách ngang tàng, chất bụi bặm và kiêu bạc của người lính thời chống Mỹ. Thơ ông có sức mạnh của cả một binh đoàn trùng trùng ra trận”.

· Sau khi giải phóng, Phạm Tiến Duật làm thơ dựa trên những trải nghiệm thực tế, ông thấm thía về ranh giới giữa sự sống và cái chết. Ông viết về những ngày tháng tốt đẹp khi được ở bên cạnh những người bạn, những người đồng đội thân thương đã cùng nhau gắn bó trong một thời gian dài.

Tác phẩm

Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây".

Những tập thơ chính:

· Vầng trăng - Quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"

· Ở hai đầu núi (thơ, 1981)

· Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)

· Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)

· Nhóm lửa (thơ, 1996)

· Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)

· Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng). Tập thơ và trường ca này đã được trao Giải thưởng văn học 2007 của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân.

· Vừa làm vừa nghĩ (tập tiểu luận, 2003)

Ông được ca tụng là "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "cây săng lẻ của rừng già", "nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ" và "ngọn lửa đèn" của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là "có sức mạnh của cả một sư đoàn".

Thành tựu nghệ thuật

· Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng về văn học nghệ thuật năm 2001, Huân chương Lao động hạng nhì năm 2007 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2012.

· Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, và ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam

· Ngày 19/11/ 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký tặng thưởng Huân chương lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.