Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

QUÁCH TUẤN


Quách Tấn (1910 – 1992) , tên là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên và các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão trông vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông hợp với Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Chế Lan Viên được người việt nam tại Bình Định gọi Chung thành tứ hữu, tức là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.

Mẹ ông nguyên là người Trung Quốc qua Việt Nam. Cha là Quách Phương Xuân vốn thạo tiếng Pháp và mẹ là Trần Thị Hào rất giỏi chữ Quốc ngữ. Gia đình ông có 10 người nhưng hiện chỉ còn ba là ông, Quách Tạo cùng Quách Thị Mộng Lan.

Lúc nhỏ Quách Tấn học chữ Hán. Đến 12 tuổi, ông mới bắt đầu học Quốc ngữ và Pháp ngữ tại trường Pháp Việt Quy Nhơn (nay là Quốc học Quy Nhơn), rồi đậu cao đẳng tiểu học (primaire Supérieur) năm 1929.

Sau đây là quá trình hoạt động của ông:

1930, làm phán sự Tòa sứ tại Tòa khâm sứ Huế, rồi đổi lên Tòa sứ Đồng Nai Thượng ở Đà Lạt.

1935, về làm việc tại Tòa sứ Nha Trang.

1939, xuất bản tập thơ đầu tay: Một tấm lòng (Tản Đà đề tựa, Hàn Mặc Tử đề bạt).

1945, tản cư về Bình Định tham gia chống Pháp, làm thủ quỹ cho Ủy ban ủng hộ kháng chiến và Mặt trận liên hiệp quốc dân huyện Bình Khê.

1949, mở Trường trung học tư thục Mai Xuân Thưởng tại thôn An Chánh huyện Bình Khê.

1951, được trưng dụng dạy Trường trung học An Nhơn rồi Trường trung học Bình Khê.

1954, hồi cư về Nha Trang được tái bổ vào ngạch thư ký hành chánh.

Từ năm 1955 đến năm 1957, ông làm việc tại Tòa Hành Chánh Quy Nhơn. Sau đó ông giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Bình Định. Nhờ địa vị này, Quách Tấn đã can thiệp với chính quyền sở tại, chọn được một mảnh đất đẹp ở Ghềnh Ráng (Quy Nhơn), rồi đưa hài cốt người bạn là thi sĩ Hàn Mặc Tử về nghĩa trang quê hương là nhà sư Quy Nhơn. Hòa ông được chôn cất tại đây. Sau đó không lâu, Quách Tấn chuyển sang Sở Du lịch Huế (1957–1958), Sở Xây dựng Nha Trang (1958–1963), rồi làm Trung úy Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963–1965) (Trong sách: Hàn Mạc) Vôn với anh tôi, em trai nhà thơ viết hoàn toàn ngược lại).

1965, nghỉ hưu tại nhà số 12 đường Bến Chợ Nha Trang (gần chợ Đầm), tiếp tục viết văn làm thơ.

1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.

Quách Tấn lập gia đình năm 1929. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Nhiếp, hiệu Thanh Tâm, sinh trưởng tại Phú Phong, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định.

Tác phẩm

Quách Tấn làm thơ từ hồi học lớp một trường Quy Nhơn. Đến khi ra trường, ông đã nắm vững thể thơ, nhưng đến năm 1932 mới chính thức bước vào làng thơ văn. Năm 1933, ông đăng thơ trên An Nam tạp chí, Phụ nữ tân văn, Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ bảy... Ông được thi sĩ Tản Đà khen ngợi khi nhận xét về nguồn cảm hứng của ông trong bài Thăm vườn xưa. Tản Đà viết: Nói về mặt tình của thì buồn lắm, nhưng nói về mặt tài thì rất hay. Đây là một số tác phẩm chính của ông:

Thơ

Một Lòng: Tuyển Tập Thơ, 1939, gồm hai phần chính và một phụ lục, có bài “Tựa” của Tản Đà, bài “Bát” của Hàn Mặc Tử.

Bóng : Tuyển Tập Thơ, Sử Dụng 108 Bài Thơ Từ Bảy Ngôn Ngữ Chính, Kim Lai in năm 1965.

Mộng Ngân Sơn: Tuyển Tập Thơ, Sử Dụng 135 Bài Thơ Ngũ Tuyệt, Hoa Nắng Verlag (Paris), xuất bản 1966. giọt des Mondes: tuyển tập 60 bài thơ tứ tuyệt bằng 5 thứ tiếng, Rừng Trúc (Paris) xuất bản năm 1973.

Vầng trăng hoàng hôn: tập thơ gồm 60 bài thơ, sáu bài tám và tứ chính do NXB Trẻ ấn hành năm 1999. Tập thơ Quách Tấn: do Quách Giao (con trai ông) tuyển chọn, NXB Hội Nhà văn ấn hành. năm 2006.

Ngoài ra còn có 13 bài thơ chưa xuất bản. Vân Việt Nguyệt Ma Lâu: 2 tập phỏng theo Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đời Hậu Lê. Tập 1 xuất bản năm 1943.Tập thứ hai được thêm vào năm 1947.

Năm 2003, cùng tập này được NXB Thanh Niên in.

Nước non Bình Định: địa chí Bình Định, Nam Cường, xuất bản 1968. NXB Thanh Niên, tái bản 1999.

Xứ Trầm hương: địa chí Khánh Hòa, NXB Lá Bối, xuất bản 1970. Đời Bích Khê: Hồi Ký Đời Thơ Bích Khê Của Thi Sĩ Bích Khê. NXB Lửa Thiên Xuất bản 1971.

Về Hàn Mặc Tử: In trong tạp chí Văn hai tháng, số 7, Sài Gòn, 1967; in lại trong Hàn Mặc Tử - Xưa và Nay, Nxb Hội Nhà Văn, 1996.

Họ Làng của Nguyễn Văn Sơn (1988) Nét Bút Đẹp (1988) Bước Lang Thang: Giới Thiệu Danh Thắng, người đoạt giải Từ Huế đến Ninh Thuận , NXB Trẻ ấn hành 1996.

Tập Thơ Đường: Gồm 26 chữ và tựa đề Một Chút Lòng Cho Tuổi Trẻ Yêu Thơ Đường, NXB Trẻ ấn hành 1998.

Bóng Ngày Xưa: Hồi ký của Quách Tấn dày hơn 2.000 trang đánh máy, được sắp xếp thành 10 tập. Các tập đã xuất bản: Đời Văn (1998), Bốn Người Bạn Bàn Thành (2001), Tình Thầy Trò (2003), Trường Xuyên Thi Đối Thoại (2000), Mảnh Gương Xưa (2001), Hương Xưa Vườn (2007), Nguồn Đạo trong Thơ (2007),... Cô ấy còn có 20 tập văn học chưa xuất bản.

Thơ văn dịch

Lữ Đường Thi tuyển dịch: tuyển dịch 56 vần thơ chữ Nho của Thái Thuận, một danh sĩ nhà Hậu Lê. Trong sách cũng có phần giới thiệu sơ lược thân thế cùng sự nghiệp văn học của người thi nhân này. Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2002. Tố Như phú: tuyển dịch 72 vần thơ chữ Việt của cụ Nguyễn Du. Nhà xuất bản An Tiêm ấn hành năm 1973. Năm 1995, Nhà xuất bản văn học ấn hành ở Paris.

Ngục bút thư: dịch bài thơ chữ Hán nhật ký trong nhà tù của Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù lúc Quách Tấn đang viết không in ấn, nhưng một phần thơ dịch đã được cho cuốn Việt Nam tuyển tập xuất bản năm 2000. Năm 2015, đã có nhà xuất bản nước ngoài ấn hành với tựa là "Nhật ký trong tù" Quách Tấn dịch.

Nghìn lẻ một đêm (4 tập, 1958)

Viết chung

Ông viết chung với con trai là Quách Giao các tập:

Nhà Tây Sơn (xb năm 1988, được tái bản nhiều lần)

Võ nhân Bình Định (Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001)

Đào Tấn và Hát bội Bình Định (xb năm 2007)....

0 nhận xét:

Đăng nhận xét