Cuộc đời
Quê gốc ở làng Phú Thị,
huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, Cao Bá Nhạ nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, ngoại
thành Hà Nội. Ông là con của Cao Bá Đạt,
cháu gọi Cao Bá Quát là bác ruột. Hiện nay không biết Cao Bá Nhạ đã mất
hay chưa, có phải là quan lại hay không, chỉ biết là ông giỏi
văn chương.
Năm 1855, sau khi cuộc
khởi nghĩa Mỹ Lương do chú là Cao Bá
Quát lãnh đạo thất bại, họ Tào phải chịu
sự trừng phạt của ba bộ tộc Trudi, buộc họ phải
đổi họ và lánh nạn khắp nơi. Ông lẩn trốn ở vùng Hương Sơn, Mỹ Đức. huyện, tỉnh Hà Đông (nay là một phần
của Hà Nội) để kiếm sống bằng nghề giáo viên. Tại đây ông lập gia đình và có
con, nhưng chỉ chung sống được 8 năm
thì bị tố cáo vào năm . Ông bị bắt và
đưa đi các nhà tù Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh.
Trong tù, Cao Bá Nhạ
viết bài Tình ca (Trần Tịnh Văn) và Tụng
ca (Từ Tịnh Khúc) nộp cho quan để thanh minh, nhưng vẫn bị triều đình Huế xử tội
ngược (số 10). của mỗi tài liệu với một nơi nhất định) và sau đó chết ở đó.
Tác phẩm
Hiện chỉ mới tìm thấy
hai tác phẩm của Cao Bá Nhạ, đó là:
Trần Tịnh Văn còn được
biết đến với cái tên Cao Bá Nhà Trần. Đó là một lối diễn xướng bằng chữ Hán
theo lối tứ lục. Tứ Tinh Khúc, viết bằng chữ Nôm theo thể song lục bát cú, có 608 câu (xem trang Tử Tinh
Khúc để biết chi tiết). Đánh giá về hai tác phẩm. Ở đây Bách Khoa Toàn Thư Việt
Nam có đoạn:
Bài "Trần Tình
Văn" bằng chữ Hán và bài "Tự Tình Ca" bằng chữ Nôm được viết
trong lúc Cao Bá Nhạ đang ở trong ngục chờ hành quyết. Cao Bá Nhạ phát biểu cảm
tưởng. Nội dung hai bài giống nhau, có chỗ nói
Cao Bá Quát không đúng sự thật chỉ để khắc phục nỗi oan của mình.
Thông tin thêm
Cao Bá Đạt
(1808-1855) là cha của Cao Bá Nhạ và là
anh song sinh của Cao Bá Quát. Ông sinh ra ở làng Phú Thị, huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Năm Giáp Ngọ (1834), ông đỗ cử
nhân (sau Cao Bá Quát đỗ đại khoa), được bổ làm Tri huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa, có tiếng là một vị công thần cần mẫn thanh liêm.
Sau khi Cao Bá Quát dấy
binh chống nhà Nguyên ở Mỹ Luông năm 1854 và bị xử bắn (tháng Chạp năm Giáp Ngọ - đầu năm 1855),
ông cũng bị bắt giải về dinh. TP Huế.
Cùng đường, anh ta làm một chiếc lá tình yêu rồi dùng dao tự đâm mình. Danh sĩ
Nguyễn Văn Siêu có làm một câu đối bằng chữ Hán để ám hai người em (tức mình và Cao Bá Quát) như sau:
Ta tai! Quan, lão
tài, nan huynh, nan huynh, ngoài đời trùng sinh ngẫu nhiên;Dĩ hỉ! Đáo đầu sự thế,
khả liên khả ố, hỗn trần lưu xú diệc lưu phương.
Tạm dịch:
Thương thay! Tài điệu
tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác;
Thôi nhĩ! Sự cơ đến vậy,
đáng thương đáng ghét, nghìn năm dây xấu cũng dây thơm.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét