Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

CAO BÁ NHẠ

 

Cuộc đời

Quê gốc ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, Cao Bá Nhạ nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Ông là con của Cao Bá Đạt,  cháu gọi Cao Bá Quát là bác ruột. Hiện nay không biết Cao Bá Nhạ đã mất hay chưa, có phải là quan lại hay không, chỉ biết là ông  giỏi  văn chương.

Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do chú  là Cao Bá Quát lãnh đạo thất bại,  họ Tào phải chịu sự trừng phạt của ba bộ tộc Trudi, buộc họ phải  đổi họ và lánh nạn khắp nơi. Ông lẩn trốn  ở vùng Hương Sơn,  Mỹ Đức. huyện, tỉnh Hà Đông (nay là một phần của Hà Nội) để kiếm sống bằng nghề giáo viên. Tại đây ông lập gia đình và có con, nhưng chỉ chung sống  được 8 năm thì  bị tố cáo vào năm . Ông bị bắt và đưa đi các nhà tù Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh.

Trong tù, Cao Bá Nhạ viết  bài Tình ca (Trần Tịnh Văn) và Tụng ca (Từ Tịnh Khúc) nộp cho quan để thanh minh, nhưng vẫn bị triều đình Huế xử tội ngược (số 10). của mỗi tài liệu với một nơi nhất định) và sau đó chết ở đó.

 

Tác phẩm

Hiện chỉ mới tìm thấy hai tác phẩm của Cao Bá Nhạ, đó là:

Trần Tịnh Văn còn được biết đến với cái tên Cao Bá Nhà Trần. Đó là một lối diễn xướng bằng chữ Hán theo lối tứ lục. Tứ Tinh Khúc, viết bằng chữ Nôm theo thể song  lục bát cú, có 608 câu (xem trang Tử Tinh Khúc để biết chi tiết). Đánh giá về hai tác phẩm. Ở đây Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam có đoạn:

Bài "Trần Tình Văn" bằng chữ Hán và bài "Tự Tình Ca" bằng chữ Nôm được viết trong lúc Cao Bá Nhạ đang ở trong ngục chờ hành quyết. Cao Bá Nhạ phát biểu cảm tưởng. Nội dung hai bài giống nhau, có chỗ nói  Cao Bá Quát không đúng sự thật chỉ để khắc phục nỗi oan của mình.

Thông tin thêm

Cao Bá Đạt (1808-1855) là cha của Cao Bá Nhạ và là  anh song sinh của Cao Bá Quát. Ông sinh ra ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Năm Giáp Ngọ (1834), ông đỗ cử nhân (sau Cao Bá Quát đỗ đại khoa), được bổ làm Tri huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa,  có tiếng là một vị công thần cần mẫn  thanh liêm.

Sau khi Cao Bá Quát dấy binh chống nhà Nguyên ở Mỹ Luông năm 1854 và bị xử bắn  (tháng Chạp năm Giáp Ngọ - đầu năm 1855), ông  cũng bị bắt giải về dinh. TP Huế. Cùng đường, anh ta làm một chiếc lá tình yêu rồi dùng dao tự đâm mình. Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu có làm một câu đối bằng chữ Hán để ám hai người em  (tức mình và Cao Bá Quát) như sau:

Ta tai! Quan, lão tài, nan huynh, nan huynh, ngoài đời trùng sinh ngẫu nhiên;Dĩ hỉ! Đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hỗn trần lưu xú diệc lưu phương.

Tạm dịch:

Thương thay! Tài điệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác;

Thôi nhĩ! Sự cơ đến vậy, đáng thương đáng ghét, nghìn năm dây xấu cũng dây thơm.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét