Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023
HỒNG NGUYÊN
Nhà thơ Hồng Nguyên, sinh năm 1924, mất năm 1954, có tên thật là Nguyễn Văn Vượng. Quê gốc : xã Đức Thọ, huyện Đông Sơn, Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc TP Thanh Hóa. Vì nhà nghèo chưa học hết bậc THPT, Hồng Nguyên đã phải bỏ học để kiếm sống bằng nghề gia sư.
Ngay từ khi mới xuất hiện, "Nhớ" của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi nhiều lớp người đọc theo năm tháng.
Hồng Nguyên tên thật là Nguyễn Văn Vượng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở Lò Chum ven đô thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hoá). Gia cảnh túng bấn, anh phải bỏ dở dang việc học trung học để kiếm sống. Miếng cơm manh áo của đời thường đã làm anh vất vả ngược xuôi. Nguyễn Văn Vượng đã gặp những người làm báo, làm văn những cán bộ Việt Minh và anh đã trở thành một cán bộ văn hoá. Anh viết cho báo Tiến của Việt Minh Thanh Hóa, làm biên tập cho báo Dân Mới của Việt Minh bốn tỉnh: Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình, làm thơ đăng báo và làm Trưởng Ty Văn hóa Thanh Hóa. Thơ anh ngày ấy giàu tính ước lệ theo kiểu "gác bút nghiên theo việc đao cung" của "chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt". Tôi đã nghe nhà văn Minh Đệ là bạn anh đọc thơ thì phải nhận rằng: Đúng là Hồng Nguyên có bài "Nhớ" là hay hơn cả. Hay đến mức được xếp ngang hàng với thi nhân hàng đầu của thời 9 năm chống Pháp.
"Nhớ" được ra đời giữa năm 1948 lúc đó Nguyễn Văn Vượng là Trưởng Ty Văn hóa Thanh Hóa. Trước đó anh được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành hội văn hóa cứu quốc Liên khu 4. Chi hội văn nghệ Liên khu 4 ra Thanh Hóa tổ chức trại sáng tác và trao giải thưởng "văn nghệ Lam Sơn". Trong cuộc thi đó Vũ Tú Nam được giải nhất về Văn còn Nguyễn Văn Vượng về thơ. Mỗi giải một nghìn đồng bạc tài chính (số tiền đó có thể ăn tàm tạm được hai tháng).
Sau "Nhớ" người ta gọi Nguyễn Văn Vượng là Hồng Nguyên đến nỗi thiên hạ quên cả cái tên cha mẹ đặt cho anh. Con người của Hồng Nguyên là con người sinh ra để nhận lấy cái vất vả và đau khổ. Anh làm trưởng Ty nhưng đời sống của trưởng Ty hồi ấy làm gì có hơn nhân viên, lương tháng hơn 40 kg gạo lại phải độn gần nửa ngô, sắn. Tài sản của Ty Văn hoá là mấy chiếc bàn gỗ tạp, mấy tờ báo Sự Thật, Cứu Quốc, Thép mới, chống giặc... không xe cộ - không điện thoại...
Cái giây phút cuối của cuộc đời thi nhân đã đến, bệnh tật và túng đói đã đưa anh về với ông bà tổ tiên. Ngày "độc lập" mà anh hằng mong ước đã gần kề. Anh vĩnh viễn ở lại một làng nhỏ, bên con sông nhỏ lưu lượng bất thường. Không biết mấy ngàn tuổi sông ơi mà tính khí bất thường như thế. Mùa mưa tuôn tràn thác lũ, còn đông về thì lạnh lẽo co ro.
Những người dân quê nghèo lam lũ, chưa biết chữ đã đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Họ không biết anh là thi sĩ, cũng không biết anh có bài thơ "Nhớ" mà sau này người ta xem là một trong 8 bài thơ trữ tình hay của thời mà họ đang sống. Còn sống năm nay anh đã 93 tuổi, đã là thượng thượng thọ rồi, còn bài thơ đã đứng vững 70 năm (Hồng Nguyên sinh năm 1924).
Cách đây hơn 20 năm tôi và Hoàng Hùng bàn nhau đi tìm mộ của Hồng Nguyên, nhưng không ai biết giờ anh an nghỉ ở đâu? Số mệnh đối với anh thật sự cay nghiệt, tinh thần lạc quan yêu đời của anh thật lãng mạn, niềm tin của anh ở đồng đội, ở nhân dân là không bờ bến.
Khi biết chúng tôi đi tìm mộ Hồng Nguyên nhiều cụ ông, cụ bà đã cùng đi để chỉ dẫn. Ai chỉ chỗ nào chúng tôi cũng đào - quan tài có dấu tích gì? Hàng mấy chục ngôi mộ hầu như không có quan tài, mà có thì sau gần nửa thế kỷ, những tấm gỗ tạp cũng đã trở thành đất. Bà con mách phải tìm ngôi mộ nào có nhiều vôi bột bởi Hồng Nguyên chết vì bệnh lao, lúc chôn bà con đổ xuống huyệt nhiều vôi.
Chúng tôi bàn nhau, mảnh đất chôn cất Hồng Nguyên chỉ có mấy chục mét vuông, mấy ngôi mộ vô chủ, nên làm tường rào và tìm ngôi mộ đã chôn có nhiều vôi, đắp điểm và dựng lên tấm bia có lời dân chúng dặn dò những người lính.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
"Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!"
Có một lần tôi hỏi nhà văn Minh Đệ:
- Cái buổi trao giải thưởng cho nhà thơ" “Nhớ" anh có nghe Hồng Nguyên phát biểu và ngâm bài thơ ấy không?
- Hồng Nguyên phát biểu về những kỷ niệm đi lấy vốn sống để viết thơ.
Bài thơ dài 62 dòng, dòng dài nhất có 10 chữ “mẹ già bắt chấy cho con nhỏ” và có ít nhất hai chữ (Đằng không). Chia làm ba khổ thơ có liên hệ với nhau, đoạn triết lí, mở, khép và phát triển ở giữa thân bài. Toàn bộ bài thơ nói về hoạt động chiến đấu của những người lính Vệ quốc quân trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Tôi (nhà văn Minh Đệ) là lính của Hồng Nguyên, lúc đó Hồng Nguyễn đã là đảng viên, đã từng tham gia Việt Minh, là Trưởng Ty Thông tin, tuyên truyền. Anh đi theo bộ đội để lấy vốn sống và viết. Viết một mạch;
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một", "hai"
Súng bắn chưa quen
Quân sư mươi bài
Rồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Anh nói:
Những con người ấy vừa chui ra khỏi luống cày, từ sau lũy tre làng, cũng giống như những người lính trong thơ Chính Hữu, từ đồng mặn, ruộng chua, từ lưỡi cày đến sỏi đá, tụ hội về đây cùng tiếng đàn. âm thanh. thiêng liêng và trở thành đồng đội. Ngoài tinh thần lạc quan và ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, họ hầu như không có trang bị, vũ khí gì đáng nói.
Tôi đã nghe nhà văn Trịnh Thanh Sơn giới thiệu về bài thơ "Nhớ" và tác giả của nó. Lúc đó vào những ngày kháng chiến Chống Mỹ gian nan. Trịnh Thanh Sơn và tôi cùng công tác ở một trường sư phạm. Sơn nói: Trong cuộc hành quân liên miên của những người chiến sĩ thỉnh thoảng trong tâm trí mỗi người, hình ảnh quê nhà cũng hiện lên trong nỗi nhớ.
Hồng Nguyên sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau, trong đó tiêu biểu là thơ và tiểu luận văn học. Trong tác phẩm Hồng Nguyên để lại (Hồn thơ Việt Nam; Đời anh nông dân vô Nam; Nhớ; Những khẩu hiệu trong đêm), bài thơ "Nhớ" là mộtbài thơ tiêu biểu trong các bài thơ viết về cuộc kháng chiến chống Pháp. "Nhớ" cũng là bài thơ ghi dấu ấn phong cách sáng tác thơ Hồng Nguyên.
"Nhớ" là một bài thơ hay về người lính, đã tồn tại trên thi đàn Việt Nam 70 năm và sẽ còn mãi mãi với chúng ta.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét