Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

NGUYỄN DUY


Nguyễn Duy (sinh ngày7/12/1948), ông là một trong những nhà thơ hiện đại của Việt Nam.

Tiểu sử tóm tắt

Nguyễn Duy Nhuệ sinh năm 1948 tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là huyện Đông Vệ, TP. Thanh Hóa), ​​tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, ông làm tiểu đội trưởng lực lượng dân quân đóng ở khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm bị không quân Mỹ đánh phá nặng nề trong chiến tranh Việt Nam. Nhập ngũ năm 1966, trở thành chiến sĩ tuyến của binh chủng thông tin, nhiều năm tham gia trận đánh trên các chiến trường Đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, Chiến trường Nam Bộ, Biên giới phía Bắc (1979). Trong thời gian này ông trở thành gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Sau đó ông giải ngũ về làm việc tại tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam và là đại diện cao cấp của tờ báo này tại phía Nam.

Nguyễn Duy làm thơ từ thuở còn là học sinh trường THCS Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: "Hơi ấm rơm", "Bầu trời vuông", "Nước mắt và nụ cười", "Tre Việt Nam trên cát trắng". Ngoài thơ, ông còn viết tiểu thuyết và ký. Năm 1997, ông tuyên bố sẽ “gác bút” để nhìn lại mình, sau đó tập trung làm lịch thơ bài và in thơ trên sơn, tre, lá, thậm chí cả bao tải. Từ năm 2001 anh đã in nhiều bài thơ trên giấy dó.Ông biên tập và xuất bản năm 2005 tập thơ thiền in trên giấy Dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông tuyển chọn) khổ 81 cm x 111 cm, nguyên bản, phiên âm, dịch nghĩa và dịch nghĩa chữ Hán. Dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và hình minh họa của bạn.

Tác phẩm chính

Thơ

Cát trắng (1973), 50 bài thơ

Ánh trăng (1978)[cần dẫn nguồn], 33 bài thơ

Đãi cát tìm vàng (1987), 38 bài thơ

Mẹ và em (1987)

Đường xa (1989), 19 bài thơ

Quà tặng (1990)

Về (1994), 49 bài thơ

Sáu và Tám (tuyển thơ lục bát, 1994)

Tình tang (1995)

Vợ ơi (tuyển thơ tặng vợ, 1995)

Bụi (1997), 49 bài thơ

Thơ Nguyễn Duy (2010, tuyển tập những bài thơ tiêu biểu nhất của ông)

Quê nhà ở phía ngôi sao (2017)

Tuyển thơ lục bát (2017)

Thể loại khác

Em-Sóng (kịch thơ, (1983)

Khoảng cách (tiểu thuyết, 1986)

Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, 1986)

Tôi thích làm vua (ký, 1988)

Ghi và Nhớ (ký, 2017)

Thành tựu nghệ thuật

Nhiều bài thơ của Nguyễn Duy có má nhưng vẫn điềm tĩnh và chiêm nghiệm, để cho người đọc thấm thía. Khi ấy người ta đôi khi bàng hoàng khi biết nhiều bài thơ của ông được độc giả yêu thích: Cây tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ già, Đò Lèn, Sông Thao,... .Nó được đánh giá cao ở thể thơ lục bát, một thể thơ cảm thấy dễ viết nhưng khó viết hay. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ lỏng, chặt. Các nhà phê bình nhìn thấy ở Nguyễn Duy một đóng góp vào việc đổi mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Cây tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.

Nguyễn Duy còn có chùm ba bài thơ tự do nổi tiếng được công chúng viết về những ưu tư, trăn trở về tương lai đất nước, con người và môi trường. Bài thơ đầu tiên có tựa đề Thức tỉnh lực lượng được viết trong khoảng thời gian từ 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm năng và tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được Người viết trong chuyến thăm Liên Xô và hoàn thành năm 1988 vào năm với tựa đề Nhìn từ xa...Quê hương". Bài thơ xử lý những trì trệ và bất cập mà ông đã thấy và nghe thấy trong thời bao cấp bằng những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát dao cắt vào tim người đọc" (Lê Xuân Quang). , Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, vẫn giữ nguyên thi pháp như hai bài thơ trước, nhưng chủ đề mở rộng hơn: những suy tư về thiên nhiên, không gian và con người trong tương lai.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Nhân vật Nguyễn Duy như mảnh đất hoang, thơ Nguyễn Duy là cây quý mọc trên mảnh đất hoang này. Anh đã đoạt Giải Mai Vàng 1997 với tập thơ Bụi.

Nhà thơ Nguyễn Duy và những tác phẩm của ông chắc chắn đã đi vào lòng biết bao thế hệ. Có thể trong mỗi câu thơ của ông đều có sự chiêm nghiệm mà ông muốn gửi đến người đọc và điều đó vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến nhận thức của người đọc cho đến ngày nay.

“Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm

Bà mẹ đón tôi trong gió đêm

– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ

Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ

Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm

Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng



Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

Của những cọng rơm xơ xác gầy gò

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no

Riêng cái ấm nồng nàn như lửa

Cái mộc mạc lên hương của lúa

Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”.

Trích Hơi ấm ổ rơm – Nhà thơ Nguyễn Duy.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét