Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

NGUYỄN ĐỨC MẬU


Tiểu sử

· • Ông mất ngày 14 tháng 01 năm 1948 ở xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông sinh năm 1966, phục vụ tại đại đội của Sư đoàn 312 trên mặt trận Lào. Sau đó, ông trở thành biên tập viên rồi theo học Trường viết văn Nguyễn Du từ khoá I, từng làm trưởng phòng thơ tạp chí Văn nghệ quân đội và phó chủ tịch Hội đồng thơ - Hội nhà văn Việt Nam. Đối với những tác phẩm của vợ, ông cũng sử dụng các tên Nguyễn Đức Mậu, Hướng Hải Hưng và Hà Nam Ninh.

· Hiện ông nghỉ hưu với quân hàm đại tá và sống cùng vợ con ở Hà Nội.

Các giải thưởng

· Giải thưởng văn học Asean năm 2001

· 03 giải hội nhà văn (1994, 1996, 1999)

13

· Giải C cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ Quân đội năm 1981

· Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972-1973

Tác phẩm chính

Thơ và Trường ca

- Thơ người ra trận (in chung cùng Vương Trọng, 1971)

- Cây xanh đất lửa (1973)

- Áo trận (1973)

- Mưa trong rừng cháy (1976)

- Trường ca sư đoàn (Trường ca, 1977 - 1980)

- Trường ca Côn Đảo (Trường ca, 1978 - 1991)

- Người đi tìm chân trời (Chuyện thơ, 1982)

- Khi bé Hoa ra đời (In chung cùng Hữu Thỉnh, 1984)

- Hoa đỏ nguồn sông (1987)

- Từ hạ vào thu (1992)

- Bão và sau bão (1994)

- Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998)

- Bầy chim màu lá vàng (2004)

- Thơ lục bát (2007)

- Mở bàn tay gặp núi (trường ca, 2008)

- Từ trong lòng cuộc chiến (tuyển tập, 2010) 99 bài thơ

Truyện ngắn, phê bình & tiểu thuyết

- Con đường rừng không quên (Truyện ngắn, 1984)

- Ở phía rừng Lào (Truyện vừa, 1984)

- Tướng và lính (Tiểu thuyết, 1990)

- Chí Phèo mất tích (Tiểu thuyết, 1993)

- Con đường nhiều tơ nhện giăng (Tập truyện ngắn, 2001)

- Niềm say mê ban đầu (Tiểu luận phê bình, 2010)

Nguyễn Đức Mậu và những vần thơ tri ân đồng đội

Trong căn gác 2 của khu nhà tập thể ở “phố nhà binh” Lý Nam Đế (Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã kể cho tôi nghe những câu chuyện về đời lính gian khổ, khó khăn nhưng cũng rất đỗi vinh quang, tự hào mà ông cùng đồng đội đã trải qua cách đây nửa thế kỷ. Tất nhiên, trong cuộc trò chuyện giữa chúng tôi - một người từng đi qua cuộc chiến và một người sinh ra, lớn lên trong hòa bình - còn là những sẻ chia về sự hy sinh của những người lính "mùa xuân ấy ra đi từ đó không về".



Trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kéo dài trong lịch sử nên đề tài chiến tranh, thương binh - liệt sĩ luôn chiếm một phần không nhỏ trong đời sống văn học nghệ thuật nước nhà. Những trang viết về sự hy sinh của người lính, của những người mẹ, người vợ bao giờ cũng đem đến cho người đọc niềm xúc động thiêng liêng và lòng biết ơn sâu sắc. Trong đó, Màu hoa đỏ của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu được đánh giá là bài thơ đã chạm được vào trái tim người nghe, khiến bất cứ ai cũng không khỏi bồi hồi, xao xuyến.



Bốn câu thơ đầu là những dòng tự sự với những điệp ngữ “có người lính” và điệp từ “ra đi” đã khắc sâu ấn tượng cho người đọc. Những câu thơ tiếp theo rộng mở về thời gian, không gian và đối tượng phản ánh: "tên anh", "đá núi", "mây ngàn", "cây cỏ", "sương núi", "núi cao", "tình mẹ"... Cái hay của tứ thơ là sự chuyển hóa, hòa quyện của mây ngàn hóa bóng mẹ và mẹ hóa thành sông núi trong câu "Mây ngàn hóa bóng cây che" và "Núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con". Còn người con - người lính mà linh hồn đã hóa thành màu hoa đỏ rực cháy trong thời gian, không gian linh thiêng và bất tử.



Bài thơ đậm chất bi tráng, có sức khái quát cao và sự lay động rộng rãi từ nguyên mẫu là những bông hoa chuối rừng đến màu hoa đỏ của hy sinh, chiến thắng và bất tử; từ một bóng mây ngàn, một dáng núi đến giang sơn Tổ quốc; từ một người chiến sĩ, một người mẹ đến hàng triệu người con ưu tú đất Việt.



Bài thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc nhưng để phổ biến rộng rãi như hiện nay có lẽ là nhờ vào “đôi cánh âm nhạc” mà người nhạc sĩ mặc áo lính Thuận Yến đã khéo léo chắp vào khuông nhạc của mình. Nhắc đến ca khúc này, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu kể, hồi ấy nhà nhạc sĩ Thuận Yến cũng ở gần trụ sở Tạp chí Văn nghệ quân đội nên thỉnh thoảng hai người qua lại “ôn cố tri tân”. “Hôm đó, hai anh em ngồi ôn lại những kỷ niệm chiến trường, nhớ về những anh em kẻ còn người đã khuất và tiếc rằng vẫn chưa tìm thấy hài cốt những đồng đội chính tay mình chôn cất. Nhạc sĩ Thuận Yến đã chủ động bàn bạc và đề nghị tôi tìm tứ thơ, còn anh sẽ đảm nhiệm phần phổ nhạc như để trả nợ về tinh thần” - nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nhớ lại.



Thêm một điều đặc biệt là khi bài thơ này ra đời (năm 1990), ban đầu nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đặt tên là Thời hoa đỏ, nhưng khi phổ nhạc (năm 1991), nhạc sĩ Thuận Yến đã bàn với ông đổi thành Màu hoa đỏ. Bởi vào những năm tháng đó, suốt dọc đường hành quân chỉ gặp màu rực đỏ của hoa chuối rừng, nó gợi lên không khí hào hùng, chiến thắng, tác động không ít đến tinh thần chiến sĩ. Hơn nữa, trước đó đã có bài hát Thời hoa đỏ cũng rất nổi tiếng của nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng, phổ nhạc bài thơ cùng tên của nhà thơ Thanh Tùng.



Nói về bài thơ và bài hát Màu hoa đỏ, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu rất tâm đắc với phần thể hiện của NSƯT Thanh Lam. “Là “con gái rượu” của nhạc sĩ Thuận Yến, vì thế không ít lần Thanh Lam được nghe cha mình hát và cắt nghĩa tỉ mỉ, chi tiết về nội dung, hàm ý muốn chuyển tải. Với lợi thế ấy cùng tài năng của mình, Thanh Lam đã hát Màu hoa đỏ bằng một chất giọng căng đầy năng lượng khiến người nghe sởn gai ốc”, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu chia sẻ.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét