Tiểu sử
· Anh Thơ quê ở thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; nguyên quán: thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha bà là một người đỗ cử nhân và ra đi từ thời Pháp nên phải luân chuyển các địa phương, Anh Thơ cũng phải rời trường ở Hải Dương về Thái Bình rồi quay trở lại Bắc Giang khi còn vừa hết cấp tiểu học. Ban đầu, bà dùng nghệ danh Hồng Anh rồi sau này mới chuyển sang Anh Thơ.
· Anh Thơ nổi tiếng rất nhanh và năm 17 tuổi với cuốn Tấm hoạ quê hương bà đã đoạt giải thưởng khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Sau đấy bà tiếp tục gửi bài đến báo Đông Tây cùng một số tạp chí khác.
· Bà không được theo đào tạo thường xuyên tại trường, mặc dù rất say mê văn chương từ nhỏ, và phần nào cũng bị tác động bởi gia đình ông ngoại - cũng là một gia đình Công giáo, nhưng phải chịu cuộc sống ngột ngạt, tẻ nhạt của một cô bé sinh lên trong gia đình Phong kiến.
· • Giữa phong trào Thơ mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ coi thơ ca là một hình thức giải phóng và tự khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Anh Thơ đăng thơ từ năm 1931. Tập thơ đầu tiên - Bức tranh quê (1941) - gồm 45 bài thơ là cảnh thôn quê được sắp xếp theo trình tự bốn mùa và được miêu tả bằng một óc quan sát nhạy cảm độc đáo. Có thể coi đây là bài thơ mở đầu cho một trào lưu khác trong phong trào Thơ mới: tập trung toàn bộ cảm hứng vào cảnh vật nông thôn, làm sống dậy vẻ đẹp cổ kính của làng quê Việt Nam. Những bức tranh mang tính chất bề ngoài khách quan này không thoát khỏi lòng ham sống và tâm hồn yêu đời của người thiếu nữ muốn thoát khỏi xiềng xích nặng nề của xã hội đương thời.Trước 1945 ông cũng đã viết 1 tiểu thuyết về thân phận đàn bà (Răng Đen, 1943) và 2 tập thơ chung với các tác giả khác (Ou - 1943 và Hương Xuân - 1944.
· Trước Cách mạng Tháng Tám, Anh Thơ tham gia Việt Minh năm 1945, lúc đó chị đang là Bí thư Hội Phụ nữ 4 huyện: Việt Yên, Lục Ngạn, Bắc Sơn, Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang), là hội viên thường xuyên của Hội LHPN tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn… Thơ chị lúc bấy giờ nói nhiều đến tình cảm, hình ảnh của những người phụ nữ ở hậu phương, đặc biệt là người phụ nữ đã dũng cảm bất chấp đau thương, mất mát, chia ly, chịu đựng những hy sinh thầm lặng để góp phần xây dựng đất nước. chiến thắng.
· Trong những năm chống Mỹ cứu nước, Anh Thơ đã mở rộng đề tài, cảm xúc trong thơ, nói đến những vẻ đẹp của cuộc sống mới, chủ nghĩa anh hùng của con người Việt Nam, đặc biệt là người phụ nữ bình dân.
· Là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (1957), Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 1 và 2).
· Từ 1971 đến 1975 bà là biên tập viên cho tạp chí Tác Phẩm Mới.Đồng thời là Ủy viên thường trực của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
· Chết vì ung thư phổi ở Hà Nội. Nhà thơ Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm
· Bức tranh quê (thơ, 1939)[4], 45 bài thơ
· Xưa (thơ, in chung, 1942)
· Răng đen (tiểu thuyết, 1943)
· Hương xuân (thơ, in chung, 1944)
· Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ, 1957)
· Theo cánh chim câu (thơ, 1960)
· Đảo ngọc (thơ, 1964)
· Hoa dứa trắng (thơ, 1967)
· Sang Thu ( thơ, 1977)
· Mùa xuân màu xanh (thơ, 1974), 39 bài thơ
· Quê chồng (thơ, 1979)
· Lệ sương (thơ, 1995)
· Cuối mùa hoa (thơ, 2000)
· Hồi ký Anh Thơ (hồi ký, 2002, gồm 3 tập: Từ bến sông Thương, Tiếng chim tu hú, Bên dòng sông chia cắt)
· Bến đò bên sông
Thành tựu nghệ thuật
· Nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: "Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình". Những cảnh quê như:
"...Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay..."
(Sang thu)
hay
"...Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời..."
(Chiều xuân)
sẽ còn tiếp tục được yêu mến. Ngoài thơ, tập Hồi ký Anh Thơ của bà cũng được đánh giá cao trong thể loại hồi ký.
Chiều Xuân
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Bến đò ngày mưa
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt á
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lại đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo
Vài quán hàng không khách đứng xo ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội họa hoằn người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa.
Và họa hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.
Sang thu
Gió may nổi bờ tre buồn xao xác!
Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây;
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay.
Trên đê cỏ dựt diều sa đứt sợi,
Gã mục đồng chán nản lắng tai nghe
Trong thôn xóm hóa vàng nghi ngút khói
Gió vang âm tiếng trống cúng ra hè.
Bên bến nước đò ngang chưa ghé tới,
Khói lam chiều đã thoảng tiếng chuông vương.
Bọn chờ thuyền nhìn nhau đang sợ tối
Bỗng rùng mình như cảm thấy hơi sương.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét