Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

GIANG NAM


Tiểu sử

Giang Nam tên thật là Nguyễn Sùng, sinh ngày 2-2-1929 (tức ngày 23 tháng Chạp năm Canh Thìn - 1928) trong một gia đình nho sĩ yêu nước bình dân tại làng Bình Trị, Tổng Hiệp. , tổng Tân Định, huyện Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa (nay là thôn Bình Trị, thị trấn Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Gia đình nhà thơ hiện cư trú tại số 46 đường Yersin, TP.Nha Trang, Khánh Hòa.

Cùng bút danh Giang Nam, trước kia ông cũng sử dụng các bút danh nữa gồm có Châu Giang, Hà Trung và Lê Minh khi đăng trên một số báo công khai dưới chính quyền Sài Gòn từ khoảng năm 1955 đến năm 1959.

Trước Cách mạng (1945) , dưới chế độ Pháp cũ, sau khi tốt nghiệp hết cấp Tiểu học ở huyện ninh hoà, ông theo học vào trường Quốc học Quy Nhơn và đã đậu văn bằng Tiến sĩ (1945) . Cùng với hai người anh trai là Nguyễn Lưu (Ty Thông tin tỉnh Khánh Hoà, đã mất vào tháng 9 năm 1955) và Nguyễn Quang (sau này là GS.TS. Ngôn ngữ học, Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, trực thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, ngày nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) đã thi đậu trước đó, thì họ là ba trong tổng số không hiếm người duy nhất tại huyện Ninh Hoà đã đạt học vị Tiến sĩ, đều là ba anh em ruột trong một nhà.

Cách mạng tháng Tám (1945) thành công và cuộc kháng chiến đánh Pháp kết thúc thì Khánh Hoà là một trong các tỉnh đầu tiên tại đất nước việt nam đã kiên cường anh dũng đấu tranh để chặn đứng bước tiến của giặc ngoại xâm ngay những ngày đầu với 101 ngày đêm năm 1945 bảo vệ ga Nha Trang. Giang Nam và với hai người anh trai của mình đã đi kháng chiến từ trước cách mạng tháng tám, khi ông mới 16 tuổi. Ban đầu ông công tác tại Uỷ ban Hành chính kháng chiến xã Hoà Dũng với chức vụ cán bộ là phó Trưởng ban Thông tin và sau đó làm cán bộ phòng Văn hoá Thông tin huyện Ninh Hoà.

Do tài làm thơ đăng báo nên ông được thăng vượt cấp, Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Tỉnh Khánh Hoà điều ông sang công tác tại Ty Văn hoá Thông tin đến tháng 5 năm 1948, với vai trò soạn bài và biên tập viên chính trên báo Thắng, báo Trait d ’ Union (Gạch nối) nhằm phổ biến trong nhân dân và đưa bản tin tới nhiều cơ quan, sở ngành trong tỉnh. Tại ty này, mấy tháng sau ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần cuối cuộc kháng chiến ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Trưởng ty Văn hoá Thông tin tỉnh Khánh Hoà.

Tác phẩm đã xuất bản:

- Thơ và trường ca: Thơ Giang Nam, Ty Thông tin Khánh Hòa xuất bản (in litô), 1949; Tháng Tám ngày mai (thơ), Nxb Văn học, HN, 1962; Quê hương – Tập thơ từ miền Nam gởi ra, Nxb Văn học, HN, 1965 (tập thơ này đã được Nxb Giải phóng in 1962); Người anh hùng Đồng Tháp (thơ, trường ca), Nxb Giải phóng, 1969; Vầng sáng phía chân trời (thơ), Nxb Văn học Giải phóng, SG, 1975; Hạnh phúc từ nay (thơ), Nxb Tác phẩm mới, HN, 1978;Thành phố chưa dừng chân (thơ), Nxb Tác phẩm mới, HN, 1985; Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca), Nxb Quân đội Nhân dân, HN, 1998; Mầu nhiệm (thơ), trong tập “Nẻo về” in chung với 2 tác giả khác, Nxb Văn học, HN, 1999; Sông Dinh mùa trăng khuyết (trường ca), Nxb Quân đội Nhân dân, HN, 2002; Thơ với tuổi thơ (tuyển thơ thiếu nhi), Nxb Kim Đồng, HN, 2001; Lắng nghe thời gian (thơ), Nxb Hội Nhà văn, HN, 2008; Người đi mở đất (trường ca, đã công bố chương đầu); Tuyển tập thơ Giang Nam, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, HN, 2013 ... và khoảng 50 bài thơ đăng báo từ 1999 đến nay nhưng chưa tuyển thành tập.

- Truyện và ký: Vở kịch cô giáo (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, HN, 1962; Người Giồng Tre (ký và truyện ngắn), Nxb Giải phóng, 1969; Trên tuyến lửa (ký), Sở Văn hoá Thông tin Long An xuất bản, 1984; Rút từ sổ tay chiến tranh (ký), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1987; Sống và viết ở chiến trường (Hồi ký), Nxb Hội Nhà văn, HN, 2004; Tôi đã học văn theo kiểu của mình (hồi ký), in trong “Ký ức một thời học Văn”, Nxb GD, HN, 1995; cùng một số bài hồi ký về nghề Văn, về chân dung văn nghệ sĩ bạn bè đồng nghiệp.

. Các giải thưởng văn học:

- Giải 3 về truyện ngắn của Báo Thống nhất (1959), truyện Những người thợ đá.

- Giải nhì về thơ 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ (1961), bài Quê hương.

- Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu về Văn học Nghệ thuật của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam[4](1960-1965), giải chính thức về thơ (1965) cho tập thơ Quê hương.

- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1 (2001) cho 3 tập thơ: Quê hương, Hạnh phúc từ nay, Thành phố chưa dừng chân.

- Các giải thưởng về Văn học Nghệ thuật của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Khánh Hoà:

+ Giải thưởng 25 năm (1975-2000) về các tác phẩm và công lao đóng góp cho Văn học Nghệ thuật của tỉnh.

+Giải thưởng năm 2002 cho trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết, giải B.

+ Giải thưởng 5 năm (2001-2005) cho 2 tác phẩm Sống và viết ở chiến trường, Sông Dinh mùa trăng khuyết, giải B.

- Tặng thưởng của Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2002 cho tác giả cao tuổi: trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết.

Với những cống hiến trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và thời đổi mới, nhà thơ Giang Nam đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương cao quý:

- Huân chương Quyết thắng chống Pháp hạng Nhất (1962).

- Huân chương Quyết thắng chống Pháp hạng Nhất (1975).

- Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất (1973).

- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất (1985).

- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba (1997).

- Huân chương Độc lập hạng Ba (1997).

- Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật (1997).

- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng (2008).

- Và nhiều Huy chương khác.

Nguyễn Thọ

(Sưu tầm và biên tập từ nguồn: Tuyển tập thơ Giang Nam, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, HN, 2013 và Địa chí Khánh Hòa - phần báo chí bổ sung năm 2014).

Xã Hoà Dũng hồi chín năm kháng chiến gồm 3 xã hiện nay là Ninh Quang, Ninh Bình và Ninh Hưng, đều thuộc huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà (từ năm 2011 là thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà)

Lúc này, nhà thơ Giang Nam, nhà văn Nguyễn Khải cùng là Thường trực Đảng Đoàn, nhà văn Nguyên Ngọc là Bí thư Đảng Đoàn của Hội.

Tập thơ này khoảng 30 bài, hiện chưa tìm lại được.

Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) do Trần Bạch Đằng - Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trân dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, đặc trách công tác thông tin, văn hóa, giáo dục làm Chủ tịch Hội đồng. Hội đồng đã chọn 54 tác phẩm thuộc các thể loại văn học nghệ thuật để trao ba loại giải: 02 Giải đặc biệt, 35 Giải chính thức (không phân hạng), 17 Giải khuyến khích.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét