Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

BẰNG VIỆT


Bằng Việt (tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941), quê quán ở xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Nội, là một nhà thơ Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội.

Tiểu sử

Bằng Việt quê quán ở xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông sinh năm 1941 tại huyện Phù Cát, thành phố Huế, nhưng thời thơ ấu ở Hà Tây và học trung học tại Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Khoa Luật của Đại học Kiev. Tại Liên Xô, Bằng Việt về nước năm 1965 và làm việc tại Viện Luật của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Năm 1969 ông chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam.Năm 1970 ông vào chiến trường Bình Trị Thiên với tư cách phóng viên chiến trường, làm việc tại Bảo tàng Truyền thống của Bộ đội Trường Sơn, năm 1975 làm việc tại Tòa soạn Obras Nuevas.

Sau khi gia nhập Hội Văn nghệ Hà Nội (gọi tắt là Hội Văn nghệ Hà Nội) năm 1983, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Hà Nội (1983-1989) và là một trong những người sáng lập Hội. Báo Văn nghệ (xuất bản từ 1985).

Tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam lần thứ VII (9/2005), Bằng Việt được bầu là một trong 5 Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Ông cũng từng là Quốc vụ khanh, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân Hà Nội (1991-2000). Sau Đại hội VII Hội Nhà văn Việt Nam, Bằng Việt có đơn gửi Ban Chấp hành Hội xin từ chức sau khi nhậm chức. Chủ tịch Hội đồng thơ hai nhiệm kỳ vì lý do lao động.

Sự nghiệp

Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi, tập thơ đầu tiên anh viết là Qua Trường Sa, viết năm 1961. Anh đã diễn giải nhiều thể loại thơ không vần, thơ xuôi, thơ thăng, tất cả các thể thơ có trong thơ Việt Nam và quốc tế. Thơ. Tập thơ đầu tay Hương cay - Bếp lửa của anh và Lưu Quang Vũ, được xuất bản lần đầu năm 1968 và tái bản sau 37 năm.

Ông còn dịch thơ của các nhà thơ Yannis Ritsos (Hy Lạp), Pablo Neruda (Chile); các nhà thơ Nga cổ điển và hiện đại: A. Pushkin, M. Lermontov, S. Esenin, E. Evtushenko, O. Berggoltz, M. Aliger, A. Tvardovsky, M. Dudin, A. Akhmatova, R. Gamzatov...; các nhà thơ Pháp: G. Apollinaire, P. Eluard, J. Prévert và tham gia biên soạn một số từ điển văn học.

Ông cũng hành nghề luật sư cho đến nhiệm kỳ cuối cùng trong Hội đồng nhân dân thành phố (2000).

Tác phẩm

Sáng tác

Bếp lửa sau này đã được in trong sách giáo khoa phổ thông lớp 9 THCS Học kì 1.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng thơm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

...

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở:

-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...

Đường Trường Sơn, cảnh và người (ký sự thơ 1972 - 1973)

Những gương mặt - Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973), 24 bài thơ

Đất sau mưa (1977), 20 bài thơ

Khoảng cách giữa lời (1984), 16 bài thơ

Cát sáng (1985), in chung với Vũ Quần Phương

Bếp lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986)

Phía nửa mặt trăng chìm (1995)

Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001), 30 bài thơ

Thơ trữ tình (2002)

Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)

Nheo mắt nhìn vào gió (Tập thơ, 2008), 29 bài thơ

Hoa tường vi (Tập thơ), (7-2018)

Dịch thuật

Hãy nói bằng ngôn ngữ của tình yêu (1978), thơ Yannis Ritsos (Hy Lạp), dịch chung với Phạm Hồ, Đào Xuân Quý, Tế Hanh.

Lọ lem (1982), thơ E. Evtushenko (Nga)

TASS được quyền tuyên bố, tiểu thuyết Liên Xô

Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX (hợp tuyển thơ dịch; 2005), Nhà xuất bản Văn Học và Công ty Văn hóa Việt

Biên soạn

Mozart, truyện danh nhân

Từ điển văn học, 2 tập, NXB Khoa học xã hội, 1983-1984, đồng tác giả Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004, đồng tác giả Từ điển tác giả văn học nước ngoài, đồng tác giả, chủ biên Hữu Ngọc

Giải thưởng

Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968)

Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982

Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001)

Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002)

Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió"

Giải “Thành tựu trọn đời” của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thế giới thơ trữ tình thế kỷ 20, nhận xét: “Bốn thập kỷ qua, nhiều tập thơ đã gây được sự chú ý của các thế hệ người yêu thơ và các nhà thơ để tôn vinh tác phẩm để đời của một dịch giả tài năng có nhiều đóng góp trong hoạt động giới thiệu văn học.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét