Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

CHẾ LAN VIÊN


Tiểu sử

· Phan Ngọc Hoan sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 09 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và học ở Quy Nhơn, đỗ Thành Chung (cấp 2 hay cấp 3 hiện nay), rồi bỏ học. Đi dạy thêm để kiếm sống. Quy Nhơn, Bình Định có thể coi là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, người đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn thi nhân tài hoa.

· Làm thơ từ năm 12, 13 tuổi.Năm 17 tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tay Điệu ru dưới bút danh Chế Lan Viên. Có lời tựa và nhận định nghệ thuật của Trương Thọ Luận. Toàn bộ cụm từ Dooms là cảm nhận của ông về cả một đế chế, Đế chế Champa, và rất tiếc cho sự "hủy diệt" của đế chế đó nên ông đã lấy họ là Chế khi ông lấy tên là Phan. Ngọc Hoàn sinh ra ở Quảng Trị. Ông đồng cảm với một triều đại từng là “giặc Nam” của nước ta với những thủ lĩnh như Chế Củ. Chế Bồng Nga.. đã bị các vị vua của Việt Nam xóa sổ. Từ đây, tên tuổi Chế Lan Viên vang danh trong các thi đàn Việt Nam. Ông được người đương thời gọi là “tứ bạn bàn” của Bình Định cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Quách Tấn.

· Năm 1939 ông tốt nghiệp ở Hà Nội.Sau đó, Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo, rồi ra Thanh Hóa làm giáo viên, và năm 1942 xuất bản tập Vàng Sao, một tập thơ triết lý về cuộc đời mang màu sắc siêu hình, huyền bí.

· Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông tham gia phong trào Việt Minh ở Quy Nhơn rồi ra Huế tham gia đoàn kiến ​​thiết cùng Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Trong thời gian này, Chế Lan Viên đã viết và sửa bài cho các báo Quyết Thắng, Cứu Quốc và Kháng chiến. Phong cách thơ của ông cũng dần chuyển sang trường phái hiện thực trong giai đoạn này. Tháng 7 năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị).

· Sau năm 1975 ông vào thành phố Hồ Chí Minh, mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại bệnh viện Thống Nhất. HCM, 68 tuổi.

• Chính phủ Việt Nam truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (1996).

• Con gái ông là bà Phan Thị Vàng Anh cũng là một nhà văn nổi tiếng.

Phong cách Chế Lan Viên

• Con đường thơ Chế Lan Viên “lắm bước thăng trầm.Nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ.” Thậm chí có một thời gian dài im ắng (1945-1958)

• Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới cách biệt. “Trường thơ hỗn loạn”: “Rùng rợn, huyền bí, thời gian mục nát ngưng đọng với xương máu, đầu lâu, cảnh đổ nát và tháp Chàm.” Chế Lan Viên lấy cảm hứng đáng chú ý từ đổ nát và kinh hoàng trong thơ Chế Lan Viên.Chúng ta nhìn thấy hình bóng ẩn hiện của một vương quốc hùng mạnh trong thời hoàng kim. với nỗi nhớ của nhà thơ.

• Sau Cách mạng Tháng Tám. Thơ ông đã “đi đến đời sống nhân dân, đất nước, chan hòa ánh sáng cách mạng” và có chuyển biến rõ rệt. Trong giai đoạn 1960-1975.Thơ Chế Lan Viên mang khuynh hướng sử thi anh hùng, chính luận và đậm tính thời sự. Sau 1975, “thơ Chế Lan Viên dần trở về với cuộc sống trần tục và những trăn trở của cái ‘tôi’ trong phức tạp, đa diện và muôn thuở của cuộc sống”.

• Phong cách thơ Chế Lan Viên rất trong sáng và độc đáo, thơ ông là sức mạnh trí tuệ, thể hiện ở khuynh hướng suy tưởng - triết luận. “Suy ngẫm triết học mang lại vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng.Hình tượng thơ phong phú, được sáng tạo bởi một cây bút thông minh, tài hoa.” Tương quan tương phản cao được khai thác triệt để, và quan trọng nhất là khả năng tạo hình phong phú. Tượng độc đáo và biểu cảm.

Quan điểm và tính cách

• Chế Lan Viên là người bộc trực và đòi hỏi cao. Tranh luận một lần nữa khi nó rất khó khăn và sẵn sàng để tranh luận và chỉ trích. Không nể nang ai, dù là cố nhân hay bạn thân, nhiều nhà thơ, nhà văn như Phan Khôi, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Yến Lan, Nguyễn Văn Bổng, Bùi Hiền, Hoàng Minh Châu...bạn phải đã nghe và đọc. Phê phán gay gắt và tranh cãi . của Chế Lan Viên nổi tiếng đến mức ông và nhà thơ .Nguyễn Việt Lãm đi công tác ở Hungary trở về. Phu nhân Vũ Thị Thường liền hỏi: "Hai người cùng đánh nhau à?"Còn Xuân Diệu thì nói: “Bây giờ ghê lắm. Chế Lan Viên cũng khuyến khích các nhà thơ, nhà văn mạnh dạn suy nghĩ về vấn đề của xã hội. Ông kêu gọi "Hoan nghênh các văn nghệ sĩ có tác phẩm làm tròn bổn phận độc tài cường quyền chứ không phải tà quyền". Bản thân Chế Lan Viên cũng biết tính cách của mình khiến nhiều người bực mình, và rất ghét một số bạn như nhà văn Nguyễn Văn Bổng vốn hiểu tính Chế Lan Viên nên chỉ cười và phớt lờ ông.

Các bút danh

• Cùng với bút danh nổi tiếng Chế Lan Viên (được hiểu là tác giả tự nhận mình là một bông lan trong vườn nhà họ Chế - hoàng tộc Chăm của đất nước Champa cổ). Trong phần giới thiệu tuyển tập Cảm nghĩ của tôi về Xuân Diệu, đăng trên Văn học tháng 9-1958. Ông ký tên là Thạch Hãn (tên một con sông ở tỉnh Quảng Trị, quê hương ông). Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5/1975 cũng được ký dưới bút danh này.

• Từ năm 1959 đến năm 1963, khi làm biên tập viên báo Văn học, phụ trách mục “Diễn văn Văn thơ” và trả lời các câu hỏi của độc giả. Ông ký bút danh Chàng Văn. Năm 1961, nhà xuất bản văn học xuất bản hai tập Vào Nghề và Thơ Nói của Chàng Văn.

• Trên mục Nụ cười xuân của báo văn nghệ. Chế Lan Viên có hai bài đoản văn là Ngô Bội Kiều và Đồ Gòn Thuyết ký tên Oah (tức Hoan).

Đời tư và gia đình

· Chế Lan Viên kết hôn lần đầu với bà Nguyễn Thị Giao, con một người rất giàu có, vào năm 1943, theo gợi ý và lời khuyên của Giáo chủ Quách Tấn, gia đình nhà giáo muốn tránh mặt vì Chế Lan Viên không có nghề nghiệp. Hai người có với nhau ba người con là Phan Lại Triều, Phan Trường Định và Phan Thị Chân Thanh. Tuy nhiên, sau một thời gian chung sống hạnh phúc, cuộc hôn nhân gặp sóng gió khi Chế Lan Viên sang Trung Quốc chữa bệnh và hai người ly hôn vào năm 1959.

· Cùng năm 1961, Chế Lan Viên tái hôn với nhà văn Vũ Thị Thường (tên thật là Lê Thị Kim Nga). Sinh năm 1930 tại làng Tả Thanh Oai, xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.Tác giả truyện ngắn Cái hom giỏ, người hoạt động báo chí và phong trào phụ nữ. Đoạt giải A cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1958. Cuộc hôn nhân cũng do một người mai mối của một người bạn văn khác từ năm sắp đặt. là bạn của Nhà văn , nhà văn Nguyễn Thành Long (tác giả Lặng lẽ Sa Pa). Ông bà Thương có hai người con là Phan Thị Thắm và Phan Thị Vàng Anh, sau khi Chế Lan Viên mất, bà Thương là người sưu tầm và biên tập những bài thơ, chưa xuất bản của Chế Lan Viên để xuất bản thành 3 tập Di cảo thơ.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét