Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023
Home »
Quê Quán Quảng Bình
,
Thế Kỷ :20.
,
Trái Tim Sinh Nở
,
TRường Viết Văn Nguyễn Du
» LÂM THỊ MY DẠ
LÂM THỊ MY DẠ
· Lâm Thị Mỹ Dạ sống ở quê hương: huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Bà công tác ở Ty văn hoá Quảng Bình từ năm 1978 đến 1983 tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó bà trở thành nhà báo và biên tập tạp chí Sông Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên – Huế) . Lâm Thị Mỹ Dạ là uỷ viên BCH Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III và uỷ viên Hội đồng lý luận Hội Nhà văn Việt Nam khoá V. Hiện nay bà đang sinh sống ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Chồng bà – Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn và dịch giả có tên tuổi tại Việt Nam.
Tác phẩm chính
· Trái tim sinh nở (thơ, 1974)
· Bài thơ không năm tháng (thơ, 1983)
· Danh ca của đất (truyện thiếu nhi, 1984)
· Nai con và dòng suối (truyện thiếu nhi, 1987)
· Phần thưởng muôn đời (truyện thiếu nhi, 1987)
· Hái tuổi em đầy tay (thơ, 1989)
· Nhạc sĩ Phượng Hoàng (truyện thiếu nhi, 1989)
· Mẹ và con (thơ, 1994)
· Đề tặng một giấc mơ (thơ, 1998)
· Cốm non (thơ, 2005)
· Tuyển tập thơ và truyện thiếu nhi (2006)
· Hồn đầy hoa cúc dại (thơ, 2007)
· Khoảng trời - Hố Bom (thơ, 1972)
Phong cách sáng tác
Trong Tuyển tập thơ Lâm Thị Mỹ Dạ NXB Hội Nhà văn, in năm 2011 bài Ngoảnh lại trên đây không ghi năm tháng sáng tác. Nhưng cũng không khó nhận ra bài này chị viết lúc đã không còn trẻ: Năm tháng tươi xanh /Đời đến lúc cỗi già…/Ta thành trái mà hồn còn như lá /Cứ xanh hoài chồi biếc thuở non tơ (Ngoảnh lại). Không ít lần chị nói về cái “tươi xanh” đáng quý này. Khi thì mắt xanh, sao xanh: Đôi mắt xanh nhìn ngôi sao xanh (Chú mèo bên cửa sổ); Khi thì trăng xanh: Tròn đầy như trăng /Xanh mềm như cỏ (Anh đã nhìn thấy em); cỏ xanh: Xin cho tôi suốt đời làm con dế /Hát li ti trong cỏ xanh non (Du ca – dế), Rồi cỏ sẽ xanh trên tên tuổi chúng ta /Dòng sông sương mù trôi mãi (Những tứ thơ quên lãng); trời xanh: lòng kiêu hãnh trong em anh không sao thấy hết /Như trời xanh đo mãi không cùng (Lòng kiêu hãnh); vườn xanh: Sao sơm nay vườn xanh như cổ tích (Buổi sáng trong vườn); hạt sương xanh: Như cánh chuồn vụt bay không níu được /Hạt sương xanh – hạt cốm nhỏ tan dần (Cốm non); tiếng chim xanh: Tiếng chim gù xanh biếc đồng quê (Mẹ ngày xưa); thời gian xanh: Theo bài ca tôi về tìm lại /Khoảng thời gian xanh biếc dưới cỏ mềm (Khoảng thời gian xanh biếc); sự im lặng màu xanh: Nỗi im lặng của trăng non và lá xanh (Không đề); cái nhìn cũng xanh: Còn ở trong hồn /Cái nhìn xanh biếc (Tôi về với tôi), Mùa xuân lên xanh dây bầu /Trăng non lên xanh đêm thâu (nói chuyện với con trước giấc ngủ)… Quả là mênh mang biến ảo màu xanh. Lâm Thị Mỹ Dạ cố ý (trong ý thức) hay vô tình (trong tâm hồn) mà cái tươi xanh này để lại trong trang viết của chị như một đặc trưng khó quên? Hay ở chị sự tàn khốc của chiến tranh, sự nghiệt ngã của thiên nhiên, sự ngang trái của nỗi đời… đang bị phủ định theo luật của cái đẹp, luật của thơ trữ tình?
Cũng thường gặp trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hình ảnh vầng ảnh trăng. Hình như vầng trăng mỗi khi một vẻ chen vào mọi góc riêng của chị. Khi chị trò chuyện với con: Con nằm trong nôi nhìn mẹ /Ngoài kia trăng xanh lên non (Nói chuyện với con trước giấc ngủ); Khi chị nghĩ đến bạn bè: Tri âm nào ai thấu /Chỉ một vầng trăng xanh (sự tích của đá); Khi chị phân thân: Chú ngựa làm trời đêm xúc động /Giữa cao vời dâng tặng mảnh trăng non (Giấc ngủ mặt trời); Khi chị ngẫm nghĩ về bản thân: Muôn đời im lặng /Vầng trăng xanh biếc (Tôi thấy mình), Nỗi im lặng của trăng non và lá xanh (Không đề); Khi chị nói về tình yêu: Đã nhìn thấy em /Tròn đày như trăng (Anh đã nhìn thấy em), Vầng trăng trong hồn anh /Chỉ riêng mình em biết (Chỉ mình em thấy), Đêm nhìn lên ánh trăng xinh /Vầng trăng ấy – nơi chúng mình gặp nhau (Vầng trăng)…vv.
Thành tựu nghệ thuật
· • Nhà thơ, nhà văn học Hồ Thế Hà viết: “Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ thơ bao giờ cũng bất ngờ. Nhà thơ Ngô Văn Phú cũng nhận xét: “Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ thường đầy những rung cảm bất chợt, bối rối, nữ tính.Bài Thơ Thượng Cổ Nước Mình Bầu Trời Hố Bom của Cô được giảng dạy trong chương trình Tiếng Việt, Văn học dân gian Việt Nam.
Thông tin thêm
· Cha Lâm Thị Mỹ Dạ: Ông Lâm Thanh tham gia Việt Minh và vào Sài Gòn năm 1949. Năm 1954, ông định đưa cả gia đình vào đây nhưng vợ ông là bà Lý Thị Đậu, ông không đưa được bà Lâm Thị. Cha tôi có thể tiếp tục vì ông phải chăm sóc mẹ già và em gái. Tuy đã được thủ tướng tặng bằng khen sau ngày đất nước thống nhất vì đã có công với cách mạng trong ngày lưu lại Sài Gòn, nhưng ông bị người dân quê hương hiểu lầm là “theo giặc Nam tiến” do hoạt động bí mật trong nội bộ. kỳ trước. Mẹ Lâm Thị Mỹ Dạ từng học trường tiểu học Pháp. Thuở nhỏ bà bán hàng cho đồn Pháp, đến khi đổi mới đất nước bà bị nghi ngờ là gián điệp vì “giặc trồng”. Do cha bị hiểu lầm là đầu hàng giặc và ông ngoại là đại điền chủ nên những năm tháng tuổi thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bị bạn bè, người quen xa lánh, chối bỏ. Mặc dù đã tốt nghiệp trung học nhưng anh ấy không thể theo đuổi con đường học vấn cao hơn do các vấn đề về xuất thân.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét