Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

LÊ ANH XUÂN


Tiểu sử

· Lê Anh Xuân tên là Ca Lê Hiến, mất ngày 5 tháng 6 năm 1940 ở xã An Hội, thành phố Bến Tre. Ông sanh ra đời, cũng chính trong khi Nam kỳ kháng chiến trên miền quê bến tre giàu truyền thống cách mạng.

· Lê Anh Xuân xuất thân trong một gia đình trí thức yêu nước. Anh là con trai thứ hai của nhà giáo dục và nghiên cứu văn học - GS Ca Văn Thỉnh. Từ bé, Lê Anh Xuân sinh sống với gia đình tại khu vực giải phóng ở miền Tây Nam Bộ. Từ năm 1952, ông gia nhập Nhà máy in Trịnh Bình Trọng của Bộ Giáo dục Nam Bộ. Khi ấy Lê Anh Xuân mới 12,13 tuổi nhưng đã biết sáng tác thơ ca trên bờ tường bao của nhà máy in ấn.

· Danh hiệu Vinh dự Nhà nước, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

· Lê Anh Xuân (1940-1968) là nhà thơ Việt Nam. Ông cũng là một người chiến sĩ, đã hi sinh trong đợt tổng tấn công thứ hai Xuân Mậu Thân năm 1968 trên mặt trận phía Nam, ở Sài Gòn và được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cùng danh hiệu Anh hùng lao động. cống hiến vì cách mạng.

Thân thế

· Ông tên đầy đủ là Ca Lê Hiến, sanh ngày 5 tháng 6 năm 1940 ở Làng Bến Tre, sau là Xã Tân Thành Bình, Quận Mỏ Cày (nay là Huyện Mỏ Cày Bắc) , Tỉnh Bến Tre. Nhà thơ là GS Ca Văn Thỉnh và giáo sư âm nhạc. Các em thuộc đại gia đình anh cũng là nhà giáo và văn nghệ sĩ tên tuổi. Anh trai là nsưt Ca Lê Thuần, chị gái là nsnd Ca Lê Hồng Nguyên Giám đốc Trường Nghệ thuật Sân khấu II TP. HCM và em trai là nhạc sĩ Ca Lê Thắng.

Sự nghiệp

· Làm quen với văn chương cũng khá sớm. Năm 12 tuổi, ông đã học văn rồi học việc trong Nhà máy in Trịnh Đình Trọng của Bộ Giáo dục Nam Bộ tại chợ lớn. Năm 1954, ông theo cha mẹ ra Bắc, học tại lớp phía Nam của Trường cấp III Nguyễn Trãi (Hà Nội) , và đỗ đầu ngành Văn học Tổng hợp Hà Nội. Khi lần đầu trình làng độc giả, ca khúc "Nhớ mưa quê hương" với nỗi lòng về phương Nam da diết đã giành lấy tình cảm của bạn đọc và đạt giải nhì hội thi viết thơ báo Văn nghệ năm 1960. Sau khi tốt nghiệp đại học, Lê Anh Xuân đã để lại chức giảng viên tại bộ môn lịch sử và gửi sang học bên pháp, tuy nhiên anh không muốn quay về quê đấu tranh.

· Tháng 12 năm 1964, Lê Anh Xuân chuyển vào Nam và làm việc ở Phòng Văn hoá của Ban Tuyên giáo Trung ương Cục. Lính 7 tháng 7 năm 1965, ông ra gia nhập Hội Văn nghệ Giải Phóng. Từ đây, Lê Anh Xuân đã sinh sống và làm việc với vai trò một người nghệ sĩ, một nhà văn.

· Cuối năm 1964, ông vượt Trường Sơn vào Nam, công tác ở Tiểu ban Giáo dục Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam rồi ở Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam. Trong thời gian này, ông lấy bút hiệu là Lê Anh Xuân. Lúc đầu anh lấy bí danh là Lê Lan Xuân, đặt theo tên của một người bạn tên là Lê Lan Xuân, khi về nam anh phải đổi tên vì lý do bí mật để tránh bị địch phát hiện là bộ đội Bắc Việt trực thuộc Trung ương. Mặt trận đã được gửi .Xuân Lan.Sau này vào chiến trường, ông chuyển sang Lê Anh Xuân. Năm 1966, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài thơ, ông còn viết văn xuôi.

· Lê Anh Xuân hy sinh trong cuộc tấn công của quân đội Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 5 năm 1968 tại ấp Phước Quang, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

Vinh danh

· Tên của ông được vinh dự đặt cho một đường phố Việt Nam, như ở quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, quận Hà Đông, Hà Nội, ở huyện Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, Quảng Bình.

· Năm 2011, ông được Nhà nước Việt Nam, phong tặng danh hiệu Anh hùng Quân đội nhân dân.

· Nhà thơ Lê Anh Xuân nổi danh vào khoảng giữa năm 1960 và thơ ông phát sóng thường xuyên trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

· Lê Anh Xuân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước Việt Nam về Văn hoá Nghệ thuật cùng danh hiệu Anh hùng Quân đội nhân dân cho các đóng góp lớn lao của ông với tổ quốc. Các thế hệ giáo sư cùng sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đều ghi nhớ tên ông.

Tác phẩm

· Tiếng gà gáy (thơ, 1965)

· Không có đâu như ở miền Nam (thơ, in chung, 1968)

· Nguyễn Văn Trỗi (trường ca, 1968)

· Hoa dừa (thơ, 197l)

· Thơ Lê Anh Xuân (tuyển thơ, 198l)

· Giữ đất (tập văn xuôi-1966)

Thành tựu nghệ thuật

· Lê Anh Xuân viết nhiều bài thơ trong cuộc đời ngắn ngủi, chủ yếu thể hiện tình yêu quê hương đặc biệt là quê hương Bến Tre. Các bài thơ: Nhớ mưa quê, Về quê, Về phương Bắc,... được bạn đọc yêu thích.Bài thơ cuối cùng của ông từ năm 1968: Dáng đứng Việt Nam, được coi là một trong bài thơ tiêu biểu viết về người lính Quân đội nhân dân Việt Nam. Đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.

· Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

· Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét