Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023
ĐÔNG HỒ
Đông Hồ (10-3-1906 – 25-3-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, bí danh Trác Chỉ, Đông Hồ, Hoa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cô Nguyệt, Đại An Am, Nhị Liễu tiên sinh. Được coi là nhà giáo, nhà thơ, người say mê tiếng Việt và văn hóa dân tộc Việt, ông là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ đại” gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ ông), Lư Khê và Trúc Hà.
Thân thế và sự nghiệp
Đông Hồ sinh ra tại thành phố Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang. Thuở nhỏ tên là Kỳ Phác, từ nhỏ mồ côi cha mẹ, được người chú là Lâm Hữu Lan nuôi nấng và sinh cho một nhân vật nhỏ tên là Quốc Tí, tự là Trác Chỉ. Ở ngoại ô Đông Hồ Ấn Nguyệt là một danh lam thắng cảnh trong Hà Tiên Thập Cảnh và khi bắt đầu làm thơ ông đã lấy tên là Đông Hồ.
Lượt kê nững hoạt động chính của ông:
1926 – 1934: Trí Đức được thành lập bên bờ biển, Đông Hồ chủ trương giáo dục cho mọi người Việt Nam và khuyến khích người Việt Nam tin tưởng vào tương lai của tiếng Việt. Trong thời gian này ông có đóng góp cho tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh đứng đầu cho đến khi tờ báo ngừng xuất bản (1935). Cũng trong giai đoạn này, ông nổi tiếng với các bài viết về Linh Phương hay Trác Chi Lễ và bài ký về Đông Hồ.
1935 – Xuất bản tuần báo Sống ở Sài Gòn, nhưng chỉ sau vài chục số thì bỏ dở vì không tự túc được. Ông phải trở về Hà Tiên sinh sống và nghiên cứu văn học phương Nam. 1945: Tham gia kháng chiến. Chiến tranh. Chống Pháp một thời gian nhưng sức yếu, ông rời Hà Tiên về Sài Gòn. 1950: Ông thành lập Nhà xuất bản Bốn Phương và Nhà sách Yêm Yêm Thu Trang.
1953: Phát hành tạp chí Nhân Loại để hỗ trợ nhà xuất bản nói trên và nhà sách đến giữa năm 1964 thì ngừng hoạt động 1964: Ẩn náu trong nhà Quỳnh Lâm Thư ở ngoại ô Sài Gòn. Những năm sau đó, ông viết cả văn lẫn thơ, thường viết về văn học, lịch sử đăng trên các tạp chí do Sài Gòn xuất bản như Văn Hóa, Bách Khoa, Văn Lịch,...1965: Ông được mời về làm Giám Đốc Văn Học Miền Nam tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
Ông mất ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức ngày 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu) khi đang đứng trên bục giảng và trình bày bài thơ “Trương Nữ Vương” của nghệ sĩ Ngân Giang cho các em học sinh.
Tác phẩm
Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, kí, khảo cứu, văn sử, về văn, ông viết từ văn xuôi miền biển đến văn xuôi hiện đại. Ông nổi tiếng khi viết cho tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh đứng đầu và được biết đến nhiều nhất với tiểu luận Linh Phương tức tập Trác Chỉ Lễ Ký và Phù Đổng Hồ.
Các tác phẩm đã in thành sách:
Thơ Đông Hồ (Văn Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1932): sáng tác trong khoảng 1922 - 1932
Lời Hoa (Trí Đức Học Xá, Hà Tiên xb, 1934): các bài Việt văn của học sinh Trí Đức Học Xá đã nhuận sắc
Linh Phượng (Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xb, 1934): tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, đăng ở Nam Phong tập XXII, số 128
Cô Gái Xuân (Vị Giang Văn Khố Nam Định xb, 1935): thơ sáng tác trong khoảng 1932 - 1935
Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí Đức Học Xá xb, 1936): soạn chung với Trúc Hà
Hà Tiên thập cảnh (Bốn Phương xb, 1960): in chung với Đường Vào Hà Tiên của Mộng Tuyết thất tiểu muội
Trinh Trắng (Bốn Phương xb, 1961): thi tuyển
Truyện Song tinh (Bốn Phương xb, 1962): sao lục, khảo cứu truyện Song Tinh Bất Dạ
Chi lan đào lý (1965): tùy bút
Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều (1965): thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du
Bội lan hành (1969)
Úc Viên thi thoại (1969)
Đăng đàn (1969)
Dòng Cổ Nguyệt (1969)
Văn học miền Nam: văn học Hà Tiên (1970): tập họp những bài giảng ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Đã hoàn thành các biên khảo:
Thăm đảo Phú Quốc (Nam Phong, t. XXI, số 124, 1927)
Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong, t. XXV, số 143, 1929)
Chuyện cầu tiên ở Phương thành (1932)
Ngoài ra, Đông Hồ là một người có bàn tay tài hoa, vốn yêu thích viết chữ đẹp và nghệ thuật thư pháp, và lại yêu tiếng Việt nên ông là người đầu tiên có ý tưởng dùng cọ lông và mực Tàu viết chữ quốc ngữ. Vì thế ông được tôn là tổ sư của bộ môn Việt thư (thư pháp chữ Việt).
Đánh giá
Nhà lưu niệm Đông Hồ, cũng là nơi cư trú cuối cùng của Mộng Tuyết ở Hà Tiên. Đông Hồ viết nhiều thể loại tản văn, thơ ca, ký sự, nghiên cứu và lịch sử văn học. Ông viết từ những năm 1920 đến 1960, chuyển từ thơ cổ sang thơ hiện đại, từ văn xuôi bản ngữ sang văn xuôi hiện đại. Cùng với vợ là nữ thi sĩ Mộng Tuyết (1914-2007), ông từng làm rạng rỡ văn đàn Phương Thành (Hà Tiên) với tác phẩm.
Trích một vài nhận xét:
Hoài Thanh và Hoài Chân:
... Tôi yêu văn học dân tộc, nhưng xem cách nói của Đông Hồ, cũng bớt.... Và với bài thơ “Cô gái mùa xuân”, ông là “người đầu tiên đưa vào thơ ca Việt Nam hương vị mênh mông của tình yêu dưới ánh trăng trong, trong tiếng sóng vỗ”.
Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng:
Từ Thơ Đông Hồ xưa đến Thiếu nữ xuân mới, người ta nhận ra rằng một nhà thơ trong chính thời đại của mình bỗng hoán cải…”
Tự điển Văn học:
Người ta còn nhớ đến ông với tư cách là tác giả của Linh Phương, một tập hồi ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, với những hình ảnh, vần điệu cổ kính nhưng diễn tả nỗi buồn thời bấy giờ... Tham khảo sưu tầm và nghiên cứu tài liệu: Hà Tiên tuyển tập truyện Tao Đàn Chiêu Anh Các của Mạc do ông biên soạn; truyện Song Tinh, tức Song Tinh Nhưng Không Đa, là truyện thơ của Nguyễn Hữu Hào tìm thấy năm ; là những “đóng góp đáng kể”.
Bài thơ nổi tiếng
Mua áo
Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi,
Em đâu còn áo mặc đi chơi.
Bán thơ nhân dịp anh ra chợ,
Đành gởi anh mua chiếc mới thôi!
Hàng bông mai biếc màu em thích,
Màu với hàng, em đã dặn rồi.
Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo:
Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?
Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi ai
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai!
Đông Hồ
Cô gái Xuân (trích đoạn)
… Cũng xóm làng trên, cô gái thơ,
Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ.
Gió đông mơn trớn bông hoa nở,
Lòng gái xuân kia náo nức chờ.
Tưng bừng hoa nở bóng ngày xuân,
Rực rỡ lòng cô hoa ái ân.
Như đợi, như chờ, như nhớ tưởng,
Đợi, chờ, tưởng, nhớ bóng tình quân....
0 nhận xét:
Đăng nhận xét