Tiểu sử
Sinh năm 1940 (khai sinh là 1943) tại thôn Dục Nội (nay thuộc xã Việt Hùng), huyện Đông Anh, Hà Nội.
Năm 1954, theo gia đình vào Nam, định cư tại quận Gò Vấp (Sài gòn). Bắt đầu viết văn rất sớm lúc khoảng 15 tuổi nhưng tác phẩm đầu tay của Y Uyên, Một chỗ cho người tàn tật, chỉ xuất hiện vào năm 1960 trên Bách Khoa, một tạp chí chuyên về biên khảo dành chủ yếu cho giới trí thức ở miền Nam.
Trong những năm sau đó, ngoài Bách Khoa, Y Uyên còn cộng tác với nhiều tạp chí văn học, văn nghệ khác như Văn, Văn Uyển, Tân Văn…
Tốt nghiệp trường Sư phạm Sài gòn, Y Uyên trở thành nhà giáo và được phân công ra dạy học ở Tuy Hòa, Phú Yên. Được ít lâu, Y Uyên bị động viên và theo học trường Võ bị Thủ Đức. Nhà văn mất năm 1969 ở gần núi Tà Zôn, Bình Thuận.
Tuy mất sớm vào lúc mới có 29 tuổi đời nhưng Y Uyên đã để lại một văn nghiệp tương đối phong phú gồm 6 tuyển tập truyện ngắn và một truyện dài viết trong thời kỳ 1960-1968: Tượng Đá Sườn Non (Thời Mới, 1966), Bão Khô (Giao Điểm, 1966), Quê Nhà (Trình Bày, 1967), Ngựa Tía (truyện dài, Giao Điểm, 1967), Đuốc Sậy (Văn Uyển, 1969), Chiếc Xương Lá Mục (Tân Văn, 1971) và Có Loài Chim Lạ (Tân Văn, 1971). Tạp chí Văn cũng xuất bản một số đặc biệt Thương Nhớ Y Uyên (1969) bao gồm nhiều bài viết của văn hữu và gia đình, bạn bè về nhà văn.
Núi Tà Dôn và dấu chân Y Uyên
TÁC GIẢ, ĐÔI LỜI…
Ba mươi sáu năm về trước, nói rõ hơn, đúng vào ngày mồng một tháng Năm năm 1969, sau khi nhà văn Y UYÊN chết, trên tạp chí VĂN của Ông Trần Phong Giao, số tưởng niệm nhà văn Y UYÊN, Lê Mai Lĩnh tôi, dưới bút hiệu khai sinh Lê Văn Chính, đã có một bài viết, về cái chết của một người huynh trưởng, Y UYÊN, anh khóa 27, tôi khóa 1/68, trường Bộ Binh Thủ Đức, bài này nằm giữa, trước là Võ Phiến, sau là Thanh Tâm Tuyền. Điều rất vui là tôi nằm giữa, những bậc đàn anh, bậc thầy.
Bài viết, như một kỷ niệm, tưởng chừng như đã chết.
Nhưng. Không ngờ. Không dự báo trước. Nhà văn Phạm Văn Nhàn cùng nhà văn Trần Hoài Thư, trong tổ hợp xuất bản Thư Quán Bản Thảo trong nỗ lực thực hiện một ấn bản tưởng niệm nhà văn Y UYÊN, hai anh đã vận động được những bạn bè trong nước, những người cầm bút trước 1975, còn sa cơ lỡ vận trong Địa ngục trần gian Việt Cộng, tìm kiếm tài liệu, vận dụng trí nhớ và tình yêu đối với Nhà văn Y UYÊN để có bài và viết bài cho số báo đặc biệt. Nhà thơ Nguyễn Lệ Uyên, dù đang cuốc đất, cày ruộng tại Tuy Hòa, cũng đã tìm được số báo VĂN tưởng niệm Y UYÊN (số 129), trong đó có một bài viết, đã trải qua 36 năm, nhưng còn Nóng Hổi chất “Văn Học, Tính Người và Nhân Bản’’ của người lính, Chuẩn úy Lê Văn Chính năm 27 tuổi: ‘’Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy’’. Lê Mai Lĩnh nhận được bài nầy từ Phạm Văn Nhàn, qua bưu điện vào lúc 11 giờ 30 ngày 1 tháng 12 năm 2004.
Lê Mai Lĩnh, đọc lại bài viết, sau khi đã uống xong 5 chai Heineken, hắn sung sướng và hắn khóc. Hắn không ngờ, 36 năm về trước, hắn thông minh, tài hoa và láu cá đến như thế.
Cho đăng lại một bài viết, tưởng chừng như không còn tồn tại trên cõi đời nầy, để quý độc giả chia sẻ niềm hạnh phúc với người thanh niên 27 tuổi vào năm 1969, cũng là người lính, người cầm bút, cũng là một kẻ rong chơi trong cõi ta bà Thế Giới, là tôi: LÊ MAI LĨNH.
01/12/2005
Đêm 8.1.69
Tôi nghĩ là hắn. Đúng là hắn. Chẳng thế nào là ai khác, ngoài hắn. Tôi biết hắn đóng ở Nora. Tôi biết ngay khi đến đây, hai tháng sau ngày hắn đến. Trình diện phòng I, hỏi thăm, được biết hắn đang ở Nora, tôi thú thật: tôi thất vọng. Thất vọng vì người ta không dùng hắn như một nhà văn có tài (26 tuổi với 4 tác phẩm vững vàng, phong phú biết bao). Người ta dùng hắn như một chuẩn uý, trung đội trưởng địa phương quân. Nhớ đến thơ Luân Hoán: Tôi là một sĩ quan mù, chỉ huy một trung đội điếc… Lúc này, nếu gặp Uy, tôi ắt hỏi: mày có mù, lính có điếc? Hỡi Uy!
Tôi nghĩ đến hắn. Tôi nghĩ ngay Uy như thế khi người lính truyền tin ở yếu khu Phú Long nói cho tôi biết, có một Chuẩn Uý ở đồn Nora đã mất tích!
Đêm nay đến phiên tôi dẫn lính giữ cầu Phú Long, ngủ dưới gầm cầu. Tôi nghĩ là Uy không thể chết. Chỉ những viên đạn vô tình thì mới không phân biệt được, còn như nếu bị bắt, Uy không thể chết. Việt cộng có thể không coi trọng Uy như một nhà văn. Nhưng biết đâu chúng chẳng dẫn Uy ra Bắc rồi tuyên truyền ầm ĩ là chính Uy đã ‘’trở về với nhân dân’’. Rồi Uy sẽ được dẫn đi khắp nơi, sẽ lên tiếng ở đài phát thanh, sẽ kêu gọi bạn bè của anh trong ban biên tập nguyệt san Bộ Binh…
hãy ‘’quay súng về với nhân dân’’. Rồi Uy sẽ được một thiếu nữ xinh đẹp, ngon lành nhất Hà Nội ôm hôn và choàng hoa. Có thể nữa, Uy sẽ làm tờ chối từ những tác phẩm của anh. Rồi Uy sẽ bắt đầu lại từ đầu, trong sự dẫn đường ‘’của Bác và Đảng’’. Tôi nghĩ đến Uy trong một cuộc đời mới. Tôi cũng định tâm từ nay theo dõi đài Hà Nội, để chờ nghe hắn lên tiếng. Tôi không một mảy may nghĩ rằng hắn sẽ chết. Tôi không nghĩ là hắn sẽ chết nếu bị rơi vào tay Việt cộng, nhưng tôi tin hắn sẽ thoát xác một cách chóng vánh và tức cười.
Ngồi trên thành cầu đến khuya, tôi nhìn về phía ngọn núi Tà Dôn và tôi nghĩ, lúc này có lẽ hắn đang bị trói tay, cũng có thể không bị trói tay nếu gặp được những đứa Việt cộng biết trọng nhân tài, và đoàn người có Uy đang di chuyển trong đêm lấy núi làm chuẩn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét