Nhà thơ Phạm Tiến Duật
sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941 tại Phú Thọ. Trong một gia đình nhà giáo, vợ là
nông dân. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông nhập ngũ
và phục vụ tại ngũ. 14 năm, trong
đó 8 năm. với Trường Sơn, với Đoàn 559.
Ông cũng chia sẻ
"Tôi có liên hệ máu thịt với Trường Sơn và có thể chính Nó đã đẻ ra đời
thi sĩ Phạm Tiến Duật. Xưa, nay và mai sau này có thêm một cái gì thấm sâu vô
lòng tôi cũng là do những ngày tháng trên Trường Sơn ".
Phạm Tiến Duật, người
đã hoạt động với vai trò là nhà báo tiền tuyến và trải nghiệm nỗi hy sinh, mất
mát, đau khổ cả vật chất và tinh thần của bao người lính trong những ngày tháng
chiến tranh gian nan và ác liệt còn Phạm Tiến Duật là Phạm Tiến Duật ở giữa và
sau thời kỳ kháng chiến đánh Hoa Kỳ Các trạng thái. Trong sách, ông đã trao tư
liệu cùng trải nghiệm thực tế chiến đấu tại nhà trường. Để phần trên gợi lên được
cái sự bay bổng, mơ mộng đầy tình cảm của một thi sĩ việt nam. Bộ hai đã đem đến
với ông nhiều khoảnh khắc tuyệt vời qua các tập thơ ông sáng tác cùng khoảng thời
gian đó. "Thơ anh mang hơi thở của hiện đại nhưng vẫn có sự phong trần, bụi
bặm và ngang tàng của một người lính thời đánh Hoa Kỳ. Thơ ông có sức mạnh của
cả một đoàn quân đánh trận "... (vợ Nguyễn Văn Thọ) .
Quãng thời gian trên
Trường Sơn là khoảng cuộc đời đẹp đẽ nhất của thi sĩ Phạm Tiến Duật. Ông cũng bảo
rằng việc có mặt của ông trên con đường Trường Sơn đầy khói lửa cuộc chiến đấu
ác liệt của quân đội và nhân dân việt nam là một chuyến hành trình vĩ đại của số
phận. Chỉ có lên trường sơn thì anh mới thấy và phát hiện ra tình yêu, sức mạnh
của đời mình thông qua các nhân vật vô cùng đặc biệt như những chàng trai mở đường,
cô gái tnxp, vị tướng hay bà mẹ Pa Cô, Vân Kiều. .. Này Trong chiến tranh với
Hoa Kỳ, Trường Sơn là đỉnh cao của tất cả vinh quang. Những cái mà chỗ kia có
thì Trường Sơn cũng có. Những cái chỗ kia không có thì Trường Sơn cũng có. Trường
Sơn cho Phạm Tiến Duật một báu vật. Ngược lại, Phạm Tiến Duật chỉ đường Trường
Sơn. Từng người lính Trường-Sơn hay nói đúng hơn là toàn bộ nhân dân thời đó đã
cảm thấy mình qua các tác phẩm của anh.
Thơ anh là một Trường
Sơn thu bé với hình ảnh người lính lái quả cảm, kiên cường: ôm nhau đùa (thơ về
tiểu đội xe không gương) ; chiến sĩ công binh cầu đường: Đồng đội lặng lẽ/Nén
nhang hoà vào bài ca/Trên nền cát trắng/Cây bi thép im tiếng (Trăng và ánh nến)
) ; những cô nàng thanh niên tình nguyện: "Hôm nay em phá bao bom/Đêm em
mơ gặp mấy anh ở đây" nhưng rất tinh nghịch, vô cùng duyên dáng và đầy nữ
tính "Khăn xanh, cái áo mặc giữa nắng ban mai/Trang giấy trải khắp trời
chiều" - (Lời người thiếu nữ gửi mình) ; chàng lính canh quán: "Mười
năm đời xa phố, nhớ phố/Tám năm trong núi trong hang/Cho nhau tất cả. .. /Do
phía nam tất cả (tiếng hát bạn tù) . ..
Phạm Tiến Duật đã khiến
những anh bộ đội đỡ cô độc và làm ấm áp tâm hồn của người lính đang ngày đêm ngồi
lắng nghe lời thì thầm của trời mưa. Phạm Tiến Duật nói thay cho một dân tộc.
Anh nói giúp cả chàng lính trẻ và các cô gái tình nguyện. Nói nên niềm tin, hi
vọng và khát khao, nỗi buồn trên mặt trận. ..
Và độc đáo nhất là tập
bài "Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây" do Phạm Tiến Duật viết vào khoảng
cuối năm 1969 ở thị trấn Cô Giang ven dòng sông Son tỉnh Quảng Bình, một vần
thơ khiến anh lính lúc nào cũng nghĩ thấy. trên mặt trận luôn hiện hữu bên ba
lô của bạn.
Khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp
soạn lời bài thơ thì chất thơ cùng chất nhạc hoà quyện chặt chẽ với giai điệu
và vút cao đôi cánh vang giữa chiến trận đã thôi thúc cả triệu con tim lên đường
ra tiền tuyến để đánh địch lập công Trên rừng Trường Sơn. /Hai người đã mất/Đường
ra mặt trận mùa hôm nay xa lắm/Trường Sơn Đông thương nhớ Trường Sơn Tây.
Với cấu tứ giản dị dễ
hiểu mang âm điệu mộc mạc và đầy chất thơ, ca từ hay cùng tiết tấu đậm đà chất
lính của bài hát đã "thổi bùng ngọn lửa" trong lòng mỗi thính giả.
Bài hát không thành công ở khía cạnh kỹ thuật và cảm xúc, song dường như đã bộc
lộ rõ ràng nhất bao cảm xúc to lớn của xã hội, của cả một thế hệ trẻ, của toàn
đất nước khi đó.
Ở hậu phương, các chiến
sĩ hát bài "Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn". Cho đến nay, "Trường
Sơn Đông - Trường Sơn Tây" luôn là một ca khúc hay và có sức sống lâu bền
trong lòng nhân dân. Đối với những người lính Trường Sơn đã anh dũng chiến đấu
và hi sinh thì đây là ca khúc bất tử, là tình cảm thiêng liêng và sự tự hào mỗi
khi cùng nhau nhớ đến Trường Sơn oai hùng, oanh liệt. ..
Sức hút của thơ Phạm
Tiến Duật không chỉ nằm ở tính mới mẻ về lối tiếp cận thực tế mà cả cấu trúc và
phong cách: Không cửa sổ đâu là xe không cửa sổ. Hư hỏng lắm/Cái chòi ta ở/Trông
mây, nhìn núi, ngắm biển (thơ về chuyến xe tuần tra không cửa sổ) hay Chấn
thương trước khi đến viện/Tôi vẫn chờ tiếng xe kêu/nằm sấp nhớ Trăng nằm ngửa
nhớ bến/giật mình tỉnh dậy thì hụt chân đi (nhớ) . .. vừa bộc lộ trình độ kĩ
thuật vững, lại phản ánh sức trẻ cùng sự năng động của các chàng trai, cô gái -
những hình ảnh thường ngày vô tư bước trên nền thơ, thành những biểu trưng rực
rỡ cho nét thanh xuân và sức sống hồn nhiên của tuổi trẻ thời kỳ chống Hoa Kỳ.
..
Sau hoà bình, Phạm Tiến
Duật lại sáng tác thơ với nhiều chiêm nghiệm sâu của mình trước ranh giới giữa
mạng người và sự chết. Vậy thơ "Tiếng súng và tiếng chuông chùa"
(1997) dành cho các nữ binh ở mặt trận trở về, được sống và lao động tốt theo một
quan niệm hết sức nhân đạo của người Việt Nam. Bài là họ đã có nhiều ngày tháng
tươi đẹp nhất trong cuộc đời, với biết bao người bạn đồng hành thương yêu nhất
của. ..
Những bài thơ xuất sắc
nhất của Phạm Tiến Duật là: "Vầng trăng lửa" (1970) , "Thơ một
con đường" (1971) , "Hai đầu núi" (1981) , "Nhóm lửa"
(1996) , "Tiếng Bom Chuông Chùa" (Tiếng Hát 1997) , "Tuyển Tập
Phạm Tiến Duật" (2007) . ..
Ngày 4 tháng 12 năm
2007, bệnh ung thư phổi đã đưa anh ra ngoài đời thực trước nỗi đau khổ tột độ của
đông đảo bè bạn, đồng đội cùng nhiều độc giả yêu mến thơ anh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét