Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

HỮU ĐẠO


Tiểu sử

Tên thật: Nguyễn Sĩ Hiền, sinh năm 1950 tại Đồng Tháp. Bí danh: Ba Đình.Bút hiệu: Đồng Tháp, Yên Thao, Rạch Gầm...

1965-1966: học Trường Pétrus Ký, tham gia phong trào học sinh năm 15 tuổi.

1968: được kết nạp vào Đảng CSVN, phụ trách tuyên huấn học sinh TP. Bị địch truy lùng gắt gao, anh rút vào hoạt động bí mật.

1970: anh vào Đảng ủy học sinh, chỉ đạo học sinh Sài Gòn - Gia Định.

1970-1972: thời kỳ sáng tác hăng, mạnh, có nhiều bài được anh em ghi nhớ.

Cuối 1972: bị địch bắt cùng Xuân Hương - hôn thê của anh.

1973: được trao trả ở Lộc Ninh.

1974-1975: học Trường báo chí T.ƯCMN. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, anh vượt Ba Thu, Đồng Tháp. Đơn vị anh đã có mặt đúng ngày 30-4-1975 để tiến vào quận 11, tiếp thu quận này. Làm bí thư quận đoàn và trưởng Phòng VHTT quận 11.

Vì bệnh cũ tái phát và công việc căng thẳng trong những ngày mới giải phóng thành phố, anh mất vì phù tim.

Tác phẩm: Sài Gòn 71, tập thơ (1971)

Ta đã lớn lên bên này châu Á, Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn xuất bản, 1971.

Ngoài thơ, Hữu Đạo còn là một ngòi bút lý luận - phê bình về nghệ thuật làm báo, viết báo. Ngòi bút lý luận của anh có sức khái quát và định hướng cho phong trào làm báo - báo in typo, báo in ronéo giấy sáp, báo tường - đang nở rộ với hàng trăm tờ ở hàng chục trường trung học như Pétrus Ký, Gia Long, Cao Thắng, Trưng Vương, Bồ Đề, Lê Văn Duyệt...

Hữu Đạo đã viết một áng văn bất hủ là “Tuyên ngôn đoàn học sinh” (hiện thất lạc, tôi chưa tìm ra). Năm 1972, Hữu Đạo tổ chức cho ra một tập san lý luận, phê bình, sáng tác, lấy tên Làm Báo, với phần trình bày bìa 1 tập san bằng toàn chữ viết của anh và 2/3 bài đăng trong tập san này là của Hữu Đạo, dưới nhiều bút hiệu.

Thời gian này, tôi chỉ biết và ngưỡng mộ Hữu Đạo qua thơ, văn, chứ chưa hề gặp mặt anh, vì hai người hoạt động cách mạng ở hai cánh khác nhau, phải ngăn cách bí mật.

***

Rồi đến một ngày, tôi gặp được anh, nhưng không phải ở chiến khu, mà trong nhà tù Chí Hòa, nơi tôi bị địch bắt giam từ cuối năm 1971 và đúng một năm sau, nhà thơ Hữu Đạo cũng bị tống giam vào đây - ở nhà tù khổng lồ cao năm tầng, xây dựng theo hình bát giác trông như chiếc đèn kéo quân, có sức chứa đến năm, sáu ngàn tù nhân. SVHS bị bắt vào đây do biểu tình chống chính quyền Sài Gòn hoặc do có liên hệ với “Việt cộng”, bị giam làm hai nhóm: một nhóm ở phòng giam lớn khoảng 50 người và một nhóm khoảng 10 người gồm Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Ngọc Phương, Nguyễn Tấn Tài và tôi.

Không hiểu vì lẽ gì Hữu Đạo bị đưa vào giam chung phòng tôi. Chúng tôi giới thiệu nhau một cách ngắn gọn, nhỏ nhẹ; rồi lui về chiếc giường của mình, nơi ăn, ngủ, đọc sách, viết lách của mỗi người trong phòng giam đặc biệt rộng khoảng 25m2, không cửa nẻo, chỉ ngăn cách với lối đi bằng những rào song sắt trông cứ như những chuồng giam thú dữ. Hữu Đạo có đôi mắt to, sáng, ẩn sau đôi kính cận gọng đen to bản.

Gần một năm ở chung tù với anh, tôi được đọc nhiều bài thơ tình anh viết cho chị Xuân Hương, hôn thê của Hữu Đạo, bị địch bắt cùng anh, nhưng được trả tự do sớm và hằng tuần vào thăm nuôi anh ở Chí Hòa, tạo cảm hứng cho anh sáng tác “những bài thơ viết cho Xuân Hương”.

Năm tháng có bao giờ ghi hếtMừng vui, giận tủi cuốn theo đờiCòn em có bao giờ hiểu đượcTrăm mối lòng ray rứt không nguôi

...

Còn bầy cướp đứng giăng ngoài phốHết đêm nay, dài lại ngày maiGiấy bút, chợ buôn người bỡ ngỡDòng thơ tôi biết gởi về ai.

(Tâm sự - thơ Hữu Đạo)

Em ơi, hai đứa rất yêu nhauMà hạnh phúc sao chỉ là đuổi bắtCuộc sống nơi đây, tình yêu chân thậtSao chỉ đầy một giấc mơNhững gì thân mật như thơ cũng choán đầy bóng chúngCắt ngang nhịp tim, đục khoét dần sự sống...

(Đông xuân - thơ Hữu Đạo)

Tình riêng trong thơ Hữu Đạo lại phản ánh được tâm trạng yêu đương của thế hệ chúng tôi lúc ấy, thế hệ những người đang dấn thân vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước: yêu, chưa dám yêu, cưới, chưa dám cưới vì sợ kẻ thù bắt bớ, hành hạ cả người mình yêu để tạo áp lực, mua chuộc, ngăn cản bước chân của người chiến sĩ - như chúng đã từng làm với nhiều cặp tình nhân.

***

Trái tim Hữu Đạo còn dành cả một dòng thơ cho những người lao động nghèo khổ, những kẻ khốn cùng:

... Những bà mẹ suốt một đời lam lũvà những em thơ đói sữa khóc vùiHãy ngẩng đầu lên môi nở nụ cười...

(Ta đã lớn lên - thơ Hữu Đạo)

Hay một bài thơ độc đáo khác, bài Tim Việt Nam, tựa do tôi đặt, vì khi đang làm tuyển tập Ta đã lớn lên bên này châu Á, tôi nhận được bài thơ này gửi đến nhưng “không đề” nên tôi tự ý đặt tựa mà không có cách nào liên lạc để hỏi ý tác giả Hữu Đạo:

Sáng nay con ra phốthấy người nằm chết co ro vỉa hè giữa chợ đời lấn chenMá ơi,Nếu con vất được trái tim và bôi bùn lên ócthì đời con hạnh phúc biết bao nhiêu.

(Tim Việt Nam - thơ Hữu Đạo)

Hậu quả của những đòn tra tấn tù đày và kiệt sức với công việc bề bộn của những tháng đầu giải phóng Sài Gòn 1975, Hữu Đạo bị phù tim. Khi tôi hay tin chạy vào bệnh viện, buồn bã nhìn anh nằm thoi thóp rồi ra đi sau đó vài ngày ở tuổi 26.

Hữu Đạo ra đi khi còn quá trẻ, nhưng sự nghiệp sáng tác của anh thật đồ sộ so với tuổi đời. Dòng thơ ca của Hữu Đạo nghe như tiếng hát của cả một thế hệ những người dấn thân đi tới giành lấy tương lai, tiếng hát mãi còn vang vọng đến thế hệ mai sau.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét