Tiểu sử
Ông sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 ở phố Hàng Cau, ngày nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Ông đi cai tù về lại quê, cảnh nhà túng quẫn, thêm nghiện hút rồi bị căn bệnh lao phổi nên đành phải cô độc theo tâm lý người khác. Mẹ ông là phụ nữ đảm đang, tảo tần, chịu thương chịu khó và đầy lòng hi sinh nhưng lại không có tình cảm đối với gia đình nhà chồng.
Mới chỉ bảy, tám tuổi, Nguyên Hồng đã nhận thức lại một cách tự nhiên và ghi nhớ khá rõ những kỷ niệm thơ ấu của anh như "thầy mẹ tôi cưới nhau không phải bởi vì yêu thương nhau" còn chính mình là hậu quả của sự hôn nhân gượng ép đó.
Năm 12 tuổi, Nguyên Hồng mất cha. Mẹ ông lén li dị, bà bị cả gia đình chồng ghẻ lạnh, hành hạ nên không còn khả năng gặp gỡ và nuôi dưỡng con. Nguyên Hồng phải sống với bà nội cùng cô út và chịu đựng thái độ ghẻ lạnh, hành hạ của cô. Sống Nguyên Hồng đã từng trải qua những năm tháng đầy đắng cay và tủi nhục khi đói cơm, không áo, thiếu cả tình cảm. Ông đã phải hành nghề bán giày lấy tiền ăn và tiếp xúc với tất cả các loại trẻ hư của những đám "cặn bã" ở gốc cây, góc đường, nhà ga, bến xe khách, sân đấu bóng.
Năm 16 tuổi khi mới hoàn thành xong cấp tiểu học, Nguyên Hồng đã phải bỏ ngang để theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống. Nguyên Hồng đã từng tìm việc làm vài chỗ nhưng đều thất bại. Trụ tại ở xóm Cấm, Hải Phòng, Nguyên Hồng sống với việc dạy tư phục vụ con cái của nhiều người dân lao động nghèo khổ.
Nguyên Hồng thích đọc sách lúc bé. Ông hay bỏ tiền túi mua sách về đọc và hầu như đọc tất cả các cuốn sách yêu thích ở tiệm cho mượn sách tại Nam Định. Loại sách Nguyên Hồng đọc lúc bé là về lịch sử Trung Hoa, theo truyền thống những người có tinh thần hiên ngang, bất khuất và anh hùng sẽ chiếm lĩnh tình cảm của ông lớn nhất.
Nguyên Hồng chính thức sáng tác văn học vào khoảng năm 1936 với truyện "Linh Hồn" in trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông tiếp tục tạo nên tiếng tăm trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ vỏ". Tiểu thuyết "Bỉ vỏ" là tấm chân dung hiện thực sống động mô tả số phận của "con người nhỏ bé dưới đáy" như Tám Bính, Năm Sài Gòn...
Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Hải Phòng (1936-1939). Ông bị mật thám bắt tháng 9-1939 và đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng gia nhập Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn. ...Ông là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Nguyên Hồng là "Núi rừng Yên Thế" được viết năm 1980. Cuốn sách vẫn còn đang dang dở vì Nguyên Hồng bị đột tử qua đời trước khi nó được hoàn thành.
Nguyên Hồng qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang) do đột tử, hưởng thọ 63 tuổi. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Thể loại và khuynh hướng sáng tác
Thể loại
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyên Hồng vẫn miệt mài sáng tạo, ông viết tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn và tiêu biểu nhất là các tác phẩm tiểu thuyết sử thi dài tập.
Khuynh hướng sáng tác
Vì có một tuổi thơ đầy bi kịch và đắng cay cho nên ngay ở các tác phẩm đầu tiên, Nguyên Hồng đã hướng cây bút đến nhóm người nghèo xung quanh nơi ông yêu quý với một niềm đồng cảm mạnh mẽ cùng với tâm thế của một người trưởng thành. Nhà văn Nguyên Hồng tự nhận bản thân ông là "nhà văn của đàn bà và trẻ con" bởi hai nhân vật (bất hạnh) trên hiện diện dày đặc trong nhiều tác phẩm tựa y như hình của ông về người mẹ lúc bé.
Các tác phẩm tiêu biểu
Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938)
Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941)
Những ngày thơ ấu (hồi ký, đăng báo lần đầu năm 1938, xuất bản năm 1940)
Qua những màn tối (truyện, 1942)
Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942)
Quán nải (tiểu thuyết, 1943)
Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943)
Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943)
Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943)
Vực thẳm (truyện vừa, 1944)
Miếng bánh (truyện ngắn, 1945)
Ngọn lửa (truyện vừa, 1945)
Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946-1961)
Đất nước yêu dấu (ký, 1949)
Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951)
Dưới chân cầu Mây (tập truyện ngắn, 1951)
Giữ thóc (truyện vừa, 1955)
Giọt máu (truyện ngắn, 1956)
Trời xanh (thơ, 1960)
Sóng gầm (tiểu thuyết, 1961)
Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976)
Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963)
Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963)
Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972)
Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973)
Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973)
Sông núi quê hương (thơ, 1973)
Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976)
Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978)
Thù nhà nợ nước (tập I trong bộ tiểu thuyết về Khởi nghĩa Yên Thế, 1981)
Núi rừng Yên Thế (tập II trong bộ tiểu thuyết về Khởi nghĩa Yên Thế, 1993)
Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập Tập I: 1983, Tập II: 1984, Tập III: 1985)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét