Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

THI HOÀNG


Tiểu sử

· Hoàng Thị (tên khai sinh là Hoàng Văn Bộ) sinh năm 1943 tại huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Năm 1967, khi đang là cán bộ kỹ thuật ngành giao thông vận tải, ông thực hiện lệnh gọi của Tổ quốc lên đường nhập ngũ rồi vào chiến trường miền Nam. Một thời gian sau, anh bị thương và được chuyển ra Bắc điều trị. Sau đó được giao cho Bộ GTVT TP Hải Phòng, rồi số được Bộ VHTT Hải Phòng đăng. Năm 1976, Thi Hoàng gia nhập Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, làm biên tập tạp chí Cửa Biển cho đến khi nghỉ hưu năm 2004.

· • Thi Hoàng có bài thơ đã đăng trên báo Văn nghệ từ năm 1963 đến nay: “Trời xanh như ruột mà xanh, Cây xanh như vẹo”. Tuy không được lưu truyền rộng rãi nhưng thơ Thi Hoàng đã tạo được dư luận rộng rãi về sự cách tân chữ độc đáo, lạ và táo bạo trong cách diễn đạt. Năm 2007, anh được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho 4 tập thơ ca khúc: “Sóng đua”, “Ba phần tư trái đất”, “Vượt đèo gọi nhau” và “Gió nào ngang qua”.

· • Sử thi “ Gọi nhau qua ghềnh đá ”, viết về chiến tranh, chủ yếu viết về số phận người lính trong chiến tranh, là tác phẩm đặc biệt thành công của Thi Hoàng, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1996), giải thưởng Hải Giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật Phong tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong tập tác phẩm đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007).

Tác phẩm đã xuất bản

· Nhịp sóng (1976)

· Ba phần tư trái đất, trường ca (1980)

· Nhịp sang (1982)

· Gọi nhau qua vách núi, trường ca (1995)

· Đóm đóm và sao (1997)

· Bóng ai gió tạt (2001)

· Cộng sinh với những khoảng trống (2005)

· Tuyển tập thơ Thi Hoàng (2014)

Giải thưởng

· Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1996)

· Giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2001)

· Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng

· Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007)

Quan điểm về thơ

· • Tôi cho rằng văn học nói chung và thơ nói riêng phải quyến rũ người đọc chứ không phải làm nản chí... Tôi ủng hộ cải cách thơ, nhưng đổi mới không đơn thuần là phá bỏ câu thơ, phá bỏ cấu tứ, phá bỏ ngữ pháp, tu từ. ... Như vậy, thơ chỉ là một mớ chữ, không thể tạo ra những câu thơ xé lòng người đọc, không thể tạo ra câu thơ vui buồn để người ta nghĩ ra hay chia sẻ khi cần.

Phong cách sáng tác

Viết thơ tốn hồn lắm

Đọc thơ Thi Hoàng có người cho rằng anh giỏi suy tưởng, nên cho ra những câu thơ bất ngờ, kiểu như: “Hoa sen không định thơm/Không định thơm thì mới thơm như thế/Rất tự nhiên là ta nhớ mẹ/Mẹ đã xa rồi/Để ta thành con cái của làn hương”. Thi sĩ có câu: “Nghe người điên hát lắm khi giật mình”. Không ít lần tôi giật mình khi đọc thơ Thi Hoàng, phải chăng đôi lúc anh sáng tác trong trạng thái… điên?

Anh chẳng phủ nhận mà còn nhiệt tình công nhận ý nghĩ đen tối của tôi: “Tôi quan niệm thế này, khi viết (viết ở đây được dùng như động từ của tất cả những người cầm bút, không phải riêng tôi) thì cố gắng không chỉ là nhìn thấy mà là cảm thấy. Bởi nếu chỉ diễn tả sự nhìn thấy, người cầm bút chỉ là rất khéo tả giỏi. Cố lặn xuống kiểu cảm thấy thì mới viết, tức là như cô nói, viết phải như điên lên”.

Tác giả Gọi nhau qua vách núi bật mí: “Tôi có một thực tế là nhà có người điên thật, chính là cô em gái ruột tôi. Thỉnh thoảng cô ấy pha nước cho tôi, tôi phải tránh, do sợ cô ấy đổ nước sôi vào mình, vì tưởng đầu anh là cái ấm. Quan niệm thơ ca cộng với thực tế, đã giúp tôi gặt hái được những câu mà người đọc thấy hay”.



Tất nhiên, cơn điên trong thơ Thi Hoàng là một cơn điên được kiểm soát khéo léo và chỉ bộc phát sau một thời gian cố gắng: “Chữ nghĩa tìm quán/ Ở chung xem có thành thơ/ có thuốc chữa. Tránh thai như Thơ/ Tranh luận về những cảm giác sai lầm". Anh kể: “Hồi còn sống, cùng Xuân Diệu nằm ở khách sạn, anh nói một câu mà thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến: “Em ạ (tức Thi Hoàng), làm một bài thơ hay nó tốn hồn lắm”.



Hồi đầu tôi nghĩ tốn tiền, tốn thời gian thì rõ nhưng hồn thì biết thế nào mà tốn. Sau này, mới thấy cách nói của anh, nhiều khi chỉ là buột khỏi mồm, sự ngẫu nhiên đó hóa ra đã được chuẩn bị từ rất lâu, đúc kết qua cả quá trình sáng tác”.

Thi Hoàng tự nhận anh có ưu điểm mà cũng là nhược điểm, đó là không dễ tưởng bở. Nhà thơ Hải Phòng thuộc thế hệ đàn em Mai Văn Phấn chia thơ Thi Hoàng ra hai thời kỳ: Thời kỳ hướng ngoại và thời kỳ hướng nội.



Anh bào chữa: “Cái mà Phấn viết phải nói thật, hơi quá lên so với cái mà tôi có. Điều này dễ thông cảm thôi, do nó yêu mình. Nhưng tôi tỉnh táo, ông khác sẽ tưởng bở, còn tôi biết, tôi chưa được thế đâu”.



Tuy nhiên tác giả cũng “tạm thời đồng ý với Mai văn Phấn” và hơi lo lắng cho thời kỳ hướng nội hiện nay: “Thời kỳ đầu là bản năng, thời kỳ sau mới ý thức, từ ý thức mới quay về nhìn mình được. Phải nói thời kỳ sau hoàn chỉnh hơn thời kỳ trước nhưng sự hoàn chỉnh ấy lại kèm theo nhược điểm: Sự già cả cũ kỹ”.



Như vậy, tập trường ca đang sáng tác của anh có nguy cơ không có đột biến? Anh trả lời thẳng thắn: “Có thể, ở tuổi tôi không đủ liều lĩnh để đi tán một cô gái trẻ nhưng tuổi trẻ thì có thể. Tuổi trẻ thường can đảm. Hồi trẻ, khi viết ta có thể hạ xuống lấy những chữ độc nhưng bây giờ già rồi lại thận trọng. Sự già làm cho mình không cả gan, không dũng cảm viết như trước”.



Rồi thi nhân đúc kết: “Bao giờ chả thế, trời cho cái nọ lại móc cái kia. Cái khó của tôi là làm thế nào để trẻ lại”. Vẫn có cách để giúp người ta trẻ lại, đó là tình yêu. Nói đến tình yêu Thi Hoàng lại lắc đầu.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét